Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn lớp 9 - Trường THCS Long Điền Đông C

Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn lớp 9 - Trường THCS Long Điền Đông C

PHẦN A : PHẦN MỞ ĐẦU

I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI:

 Đào tạo và bồi dưỡng nhân tài là một việc làm thường xuyên. Để có học sinh giỏi văn thì cần thành lập đội tuyển. Xuất phát từ những yêu cầu đó, phòng GD- ĐT Đông Hải chủ trương phải bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là điều rất cần thiết. Trong khi chất lượng học sinh giỏi văn của huyện ta còn khiêm tốn thì việc bồi dưỡng cho giáo viên được ưu tiên tiến hành.

Đứng trước yêu cấp bách đó , là giáo viên dạy văn ta phải suy nghĩ gì ? Có hành động như thế nào để nâng cao chất lượng dạy văn?

 Lãnh đạo Phòng giáo dục và đào tạo thật sự quan tâm trong bối cảnh dạy văn hiện nay!

II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

 - Chất lượng học sinh giỏi văn của chúng ta chưa cao.

 - Học sinh chưa thật sự yêu thích môn văn, nếu được chọn vào môn văn thì các em miễn cưỡng đi học.

 - Để có được học sinh giỏi văn thì cần có một thời gian bồi dưỡng nhất định.

 - Về phía giáo viên: nhìn chung là có quyết tâm cao, nhưng còn một số đồng chí chưa có nhiệt huyết trong việc bồi dưỡng mà chỉ xem là nhiệm vụ được phân công.

- Về chế độ bồi dưỡng học sinh giỏi thì ở một số trường việc này giao cho giáo viên nào còn thiếu tiết. Vì thế dẫn đến có một số giáo viên chưa có tinh thần trách nhiệm cao khi bồi dưỡng.

 - Việc bồi dưỡng chưa được thực hiên liên tục, mà còn mang tính phong trào, đến hẹn lại lên.

 - Giáo viên trong toàn huyện chưa có cách nhìn thống nhất quan điểm bồi dưỡng học sinh giỏi, mỗi người mỗi cách chưa đồng nhất.

 - Xuất phát từ những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài “ Bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn 9” để giáo viên có diễn đàn cùng nhau trao đổi kinh nghiệm bồi dưỡng cho học sinh vào những năm sau đạt hiệu quả hơn.

 

doc 22 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 1506Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn lớp 9 - Trường THCS Long Điền Đông C", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN A : PHẦN MỞ ĐẦU
I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI:
 Đào tạo và bồi dưỡng nhân tài là một việc làm thường xuyên. Để có học sinh giỏi văn thì cần thành lập đội tuyển. Xuất phát từ những yêu cầu đó, phòng GD- ĐT Đông Hải chủ trương phải bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là điều rất cần thiết. Trong khi chất lượng học sinh giỏi văn của huyện ta còn khiêm tốn thì việc bồi dưỡng cho giáo viên được ưu tiên tiến hành.
Đứng trước yêu cấp bách đó , là giáo viên dạy văn ta phải suy nghĩ gì ? Có hành động như thế nào để nâng cao chất lượng dạy văn?
	Lãnh đạo Phòng giáo dục và đào tạo thật sự quan tâm trong bối cảnh dạy văn hiện nay!
II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
	- Chất lượng học sinh giỏi văn của chúng ta chưa cao.
	- Học sinh chưa thật sự yêu thích môn văn, nếu được chọn vào môn văn thì các em miễn cưỡng đi học.
	- Để có được học sinh giỏi văn thì cần có một thời gian bồi dưỡng nhất định.
	- Về phía giáo viên: nhìn chung là có quyết tâm cao, nhưng còn một số đồng chí chưa có nhiệt huyết trong việc bồi dưỡng mà chỉ xem là nhiệm vụ được phân công.
- Về chế độ bồi dưỡng học sinh giỏi thì ở một số trường việc này giao cho giáo viên nào còn thiếu tiết. Vì thế dẫn đến có một số giáo viên chưa có tinh thần trách nhiệm cao khi bồi dưỡng.
	- Việc bồi dưỡng chưa được thực hiên liên tục, mà còn mang tính phong trào, đến hẹn lại lên.
	- Giáo viên trong toàn huyện chưa có cách nhìn thống nhất quan điểm bồi dưỡng học sinh giỏi, mỗi người mỗi cách chưa đồng nhất.
 - Xuất phát từ những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài “ Bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn 9” để giáo viên có diễn đàn cùng nhau trao đổi kinh nghiệm bồi dưỡng cho học sinh vào những năm sau đạt hiệu quả hơn. 
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
 1. Đối tượng :
- Đội ngũ giáo viên cốt cán chuyên bồi dưỡng học sinh giỏi THCS.
- Học sinh giỏi của khối 9.
 2. Phạm vi đề cập :
- Tất cả những vấn đề cần phải bàn xung quanh việc bồi dưỡng học sinh giỏi văn.
- Với thời gian có hạn, chuyên đề tập trung giải quyết hai câu hỏi:
	 + Thứ nhất : Thế nào là bài văn hay?
	 + Thứ hai : Làm thế nào để viết bài văn hay ?
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
	-Thông qua chuyên đề này, mục đích của chúng tôi là tạo ra một diễn đàn cho các đồng chí giáo viên dạy ngữ văn trao đổi và rút kinh nghiệm làm cơ sở cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhà trường.
	- Định hướng cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi những năm tiếp theo.
PHẦN B : PHẦN NỘI DUNG:
I. CỞ SỞ LÍ LUẬN :
Xã hội phát triển kéo theo nhiều hệ lụy như sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự hội nhập của nhiều nền văn hóa của các nước phương tây, của lối sống thực dụng Gia đình, cha mẹ phải bươn chảy trong cuộc mưu sinh, bỏ quên con cái, buông lỏng trong quản lí, dẫn tới điểm tựa là gia đình đối với các em không còn nữa. 
Đã có thời gian chúng ta chỉ coi trọng việc dạy văn hóa sao cho học sinh học thật giỏi mà quên đi điều quan trọng là dạy cho học sinh “Học làm Người”, quên đi việc tạo cho các em có một sân chơi với các trò chơi mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, các em không được cung cấp những kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập cộng đồng.
Ngoài việc học văn hóa, thời gian còn lại một số em lao vào các trò chơi vô bổ , bạo lực, số còn lại thì không quan tâm đến mọi việc xảy ra chung quanh, lạnh lùng, vô cảm chỉ biết sống cho riêng mình. 
Đã có những lời cảnh báo từ báo đài lên tiếng chỉ trích, phê phán lối sống của các em thanh, thiếu niên. Các em sẵn sàng thanh toán nhau chỉ vì một ánh nhìn cho là không thiện cảm, các em chế nhạo xem thường bạn, chỉ vì bạn ăn mặc không đúng mode, tệ hại hơn các em còn hành hung thầy cô giáo ngay trên bục giảng Tất cả những hành động ấy đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh những người làm công tác giáo dục. 
	Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7/11/2007 của Bộ Chính Trị về tổ chức thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” .
 	Công văn số 307/KH-Bộ GDĐT về kế hoạch triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” như một làn gió mới mang đến sự lạc quan và là kim chỉ nam để thôi thúc tôi thực hiện ý tưởng tổ chức xây dựng chuyên đề “ Bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn 9”.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
	Bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục đào tạo. Trong những năm qua, ngành giáo dục Đông Hải đã có nhiều đóng góp quan trọng trong công tác bồi dưỡng HSG, góp phần vào việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho huyện nhà, cho tỉnh.
	Bồi dưỡng HSG là một hoạt động dạy học mang tính đặc thù cao: Người học là học sinh giỏi, có năng khiếu theo môn học; người dạy là những giáo viên có trình độ tay nghề cao, giàu kinh nghiệm dạy học.
	Chương trình bồi dưỡng được nâng cao so với chương trình giáo dục chính khóa của Bộ GDĐT; Thời gian và phương pháp bồi dưỡng được các trường vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể Có thể nói đây là hoạt động dạy học ở trình độ cao, đòi hỏi người dạy và người học phải có năng lực và tố chất cần thiết; đòi hỏi các cấp quản lí giáo dục phải có kế hoạch chỉ đạo và xây dựng giải pháp phù hợp với đặc thù của công tác bồi dưỡng HSG.
	Trong thời gian qua, công tác bồi dưỡng HSG gặp nhiều khó khăn . Vì thế thành tích và chất lượng của HSG bị giảm sút so với trước đây và nguy cơ tụt hậu so với các huyện trong tỉnh. Đây chính là thời điểm để toàn ngành giáo dục huyên Đông Hải nhìn lại mình, tự đánh giá và nổ lực vươn lên.
	Từ những thực tế trên Phòng GDĐT quyết định tổ chức mở chuyên đề về công tác bồi dưỡng HSG để cho các đồng chí dạy văn và bồi dưỡng HSG văn bàn bạc và trao đổi nhằm nâng cao chất lượng HSG cho những năm tới . 
	Cũng với tinh thần đó, chuyên đề này nêu lên thực trạng và kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân, giải pháp để giúp các đồng chí dạy văn có thêm cơ sở để tham gia ý kiến xây dựng kế hoạch và giải pháp nâng cao chất lượng thi HSG. 
III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
 Bước 1: Về công tác tổ chức .
1. Xây dựng kế hoạch :
 - Nhà trường phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng HSG vào đầu năm học, các kế hoạch này phải mang tính kế thừa.	
 - Kế hoạch cần phải chi tiết, cụ thể từng nội dung.
 - Kế hoạch cần có sự đóng góp xây dựng các tổ trưởng, đặc biệt là những người được phân công bồi dưỡng HSG.
	2. Phân công giáo viên giảng dạy :
 - Chú trọng phân công giáo viên có năng lực , có tâm huyết với nghề.
 - Bố trí thời gian, địa điểm hợp lí để giảng dạy nâng cao chất lượng.
 - Yêu cầu giáo viên được phân công giảng dạy soạn và thông qua đề cương giảng dạy bộ môn mình phụ trách.
	3. Công tác phối hợp:
 Cần phải phối hợp các tổ chức trong nhà trường, kết hợp chặt chẻ với Ban đại diện cha mẹ học sinh trong nhà trường và phụ huynh của các em trong đội tuyển HSG của trường nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập.
	4. Thành lập đội tuyển :
 Việc thành lập đội tuyển phải dựa trên cơ sở năng lực thật sự của các em. Ngoài ra , chúng ta cần chú ý đến tâm lí của các em, tìm hiểu xem các em có yêu thích môn văn không? Vì HSG thì đa số là các em đều giỏi ở nhiều môn, ta cần chọn các em vào đội tuyển dựa trên sự tự nguyện của các em, tránh áp đặt. Môn văn có đặc thù nghiêng về cảm xúc, nếu các em không yêu thích thì kết quả học tập không cao.
 Bước 2 :Xác định nội dung cần bồi dưỡng:
I. Khái quát kiến thức lí thuyết.
 A. Vài nét khái quát chương trình Tập làm văn lớp 9.
	- Chương trình Ngữ văn THCS nói chung, chương trình tập làm văn nói riêng được thiết kế theo hai vòng, theo tinh thần lặp lại và nâng cao. Do cấu trúc đồng tâm nên giữa hai vòng này có những điểm giống và khác nhau. 
	- Giống nhau : trước hết là sự lặp lại của các vấn đề chính về kiến thức và kĩ năng. Chẳng hạn ở chương trình Tập làm văn 9 lặp lại ở kiểu bài tự sự, thuyết minh và nghị luận. Còn khác nhau là bổ sung thêm một số vấn đề khác đồng thời tiếp nối, nâng cao, phát triển thêm những nội dung đã học ở vòng trước. Cụ thể như sau:
	 - Đối với học sinh lớp 9 khi làm bài văn thuyết minh cần biết vận dụng một số biện pháp nghệ thuật hoặc yếu tố miêu tả, biểu cảm để đối tượng thuyết minh hiện lên sinh động rõ nét. 
	- Ở lớp 9 khi viết bài văn tự sự cần nâng cao hơn ở kĩ năng vận dụng các yếu tố miêu tả, miêu tả nội tâm, yếu tố nghị luận, hay đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm.
	- Đặc biệt hơn kiểu bài văn nghị luận là đơn vị kiến thức khá trọng tâm trong chương trình tập làm văn lớp 9. Nghị luận trong chương trình ngữ văn 9 có hai loại :
	- Nghị luận chính trị xã hội.
	- Nghị luận văn học.
Ở chuyên đề này bản thân tôi tập trung đề cập đến kiểu bài văn nghị luận, còn kiểu bài văn thuyết minh, tự sự sẽ thể hiện cụ thể ở chuyên đề tập làm văn lớp dưới .
B. Một số điểm cơ bản cần lưu ý về kiểu bài văn nghị luận trong chương trình Tập làm văn lớp 9 cần lưu ý.
 * Kiểu bài văn Nghị luận về một vấn đề xã hội.
1. Phân loại :
 - Trong chương trình Tập làm văn lớp 9 kiểu bài văn nghị luận xã hội chia làm ba loại nhỏ: 
	+ Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. 
	+ Nghị luận về một hiện tượng xã hội.
	+ Nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học. 
	2. Một số điểm giống nhau:
	 2.1. Loại:
 	Các dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lí; nghị luận về một hiện tượng đời sống; nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học đều thuộc loại bài nghị luận xã hội.
	 2.2 Các thao tác thường áp dụng khi viết bài: 
	Các dạng bài NLXH đều vận dụng chung các thao tác lập luận là giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận. Ba thao tác cơ bản nhất là giải thích, chứng minh, bình luận.
	 2.2.1 Thứ nhất về thao tác giải thích:
	 - Mục đích: Nhằm để hiểu
	 - Các bước: 
	+ Bước 1: Làm rõ vấn đề được dẫn trên đề. Nếu vấn đề thể hiện dưới dạng là một câu trích dẫn khá nổi tiếng nào đó hoặc một ý tưởng do người ra đề đề xuất, người viết cần lần lượt giải nghĩa, làm rõ nghĩa của vấn đề theo cách đi từ khái niệm đến các vế câu và cuối cùng là toàn bộ ý tưởng được trích dẫn. Khi vấn đề được diễn đạt theo kiểu ẩn dụ bóng bẩy thì phải giải thích cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ ngữ. Nếu vấn đề là một hiện tượng đời sống, người viết cần cho biết đó là hiện tượng gì? hiện tượng đó biểu hiện ra sao? dưới các hình thức nào (miêu tả, nhận diện)...Làm tốt bước giải nghĩa này sẽ hiểu đúng vấn đề, xác định đúng vấn đề (hoặc mức độ) cần giải thích để chọn lí lẽ cần thiết.
	 Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu hỏi Là gì?
	+ Bước 2: Tìm hiểu cơ sở của vấn đề: Trả lời tại sao có vấn đề đó (xuất phát từ đâu có vấn đề đó). Cùng với phần giải nghĩa, phần này là phần thể hiện rất rõ đặc thù của thao tác giải thích. Người viết cần suy nghĩ kĩ để có cách viết chặt chẽ về mặt lập luận, lô gíc về mặt lí lẽ, xác đáng về mặt dẫn chứng. Trong quan ni ... . Trong giấc ngủ vĩnh hằng có ánh trăng làm bạn.
 + “Vẫn biết trời xanh . Trong tim” : Bác sống mãi với trời đất non sông, nhưng lòng vẫn quặn đau, một nỗi đau nhức nhối tận tâm can à Niềm xúc động thành kính và nỗi đau xót của nhà thơ đã được biểu hiện rất chân thành, sâu sắc.
 4. Khổ 4 : Tâm trạng lưu luyến không muốn rời.
 	 + Nghỉ ngày mai xa Bác lòng bin rịn, lưu luyến
 	+ Muốn làm con chim, bông hoa à để được gần Bác.
 	+ Muốn làm cây tre “trung hiếu” để làm tròn bổn phận thực hiện lời dạy “trung với nước, hiếu với dân”.
 à Nhịp dồn dập, điệp từ “muốn làm” nhắc ba lần mở đầu cho các câu à thể hiện nỗi thiết tha với ước nguyện của nhà thơ.
c. Kết bài:
 	- Âm hưởng bài thơ tha thiết sâu lắng cùng với nghệ thuật ẩn dụ làm tăng hiệu quả biểu cảm.
 	- Bài thơ thể hiện tấm lòng của nhân dân, tác giả đối với Bác. 
	3.6. BÀI VĂN CUNG CẤP TƯ LIỆU
ĐỀ BÀI : Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
Bài làm
 Bao giờ cũng thế, một tác phảm đặc sắc phải bao gồm cái đặc sắc và thành công về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm ấy như một nguồn nước giếng trong, khơi mãi vẫn không hết cái ngọt ngào, lắng sâu của tình yêu con người, vẫn không cạn nguồn sức mạnh truyền vào trong cuộc sống. Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một tác phẩm như thế. Được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình này đã ghi lại tình cảm sâu lắng, thành kính của nhà thơ khi hoà vào dòng người viếng lăng Bác. Bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhân dân Nam Bộ và nhân dân cả nước dành cho Bác.
 Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vừa bước chân vào lăng. Nhà thơ xưng con và gọi Bác; lời thơ giản dị, mộc mạc mà chất chứa bao tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng chủ tịch Hồ Chí Minh của ông. Điều đó càng cho thấy Bác là một con nguời rất hoà đồng và gần gũi. Chính vậy nhà thơ Tố Hữu có viết Người là Cha, là Bác, là Anh. Chi tiết thơ Con ở miền Nam còn mang một sắc thái đầy xúc động. Khúc ruột miền Nam là miền đất xa xôi mà Bác không nguôi ngóng chờ, cho đến những ngày trước lúc lâm chung thì trái tim người vẫn luôn huớng về miền Nam ruột thịt. Nơi đó có biết bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy sinh vì một ngày mai nước nhà thống nhất. Nhưng Bác đã không chờ được đến ngày đó. Người đã ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại muôn vàn niềm thương tiếc cho nhân dân ta. Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao tình cảm xúc động, bồi hồi của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.
Và trong cái mênh mang sương mù của một ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân của Viễn Phương, ta chợt tìm thấy một hàng tre Việt Nam. Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái nhà tranh âm vang lời ru của bà, của mẹ; đến với Bác là đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao! Hình ảnh nhân hoá hàng tre bão táp mưa sa đứng thẳng hàng còn là biểu tượng bất diệt của con người VN kiên cường, bất khuất biền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sốg VN, màu xanh của hy vọng, hạnh phúc và hoà bình. Đây quả là một tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng:
“ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
 Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ơi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàg
Và nhà thơ phải kính yêu Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình này:
 “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
 Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Cũng là mặt trời nhưng mặt trời ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, ngày ngày tỏ sáng, đem sự sống cho muôn loài, vạn vật, nó cũng có lúc quạnh quẽo, u ám. Còn mặt trời của nhận dân VN. mặt trời trong lăng thì vẫn luôn chiếu ánh sáng vĩnh hằng, đỏ mãi. Bác chính là vầng mặt trời hồng toả tia sáng soi rọi con đừơng giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi. Dù rằng đã ra đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng HCM vẫn luôn trường tồn, soi đường dẫn lối cho dân tộc ta đứng lên.
 Hoà nhịp với gần trăm triệu bàn chân VN, hàng triệu bàn chân lao động trên thế giới, Viễn Phương bùi ngùi xúc động bước vào lăng:
 	“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
 	 Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như nhưng trànghoa dâng lên người. Bảy mươi chín tràng hoa, ấy là bảy mươi chín màu xuân, bảy mươi chín năm cống hiến, hy sinh hết mình của Bác đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật, Bác chính là mùa xuân, và mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân VN nở hoa. Điệp ngữ ngày ngày đứng mỗi ý thơ giữ vị trí nhãn tự, vừa thể hiện một qui luật trình tự của dòng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên của tạo hoá. 
Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vô thức bị dòng thơ cuốn và trong lăng lúc nào không hay “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
 Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
 Vãn biết trời xanh là mãi mãi
 Mà sao nghe nhói ở trong tim
 Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng dịu hiền, mát mẻ mà vãn trong sáng rạng ngời.Ta có cảm giác như Bác vẫn chưa đi xa, vẫn chưa rời khỏi thế gian này mà Người đang ngủ đấy thôi. Lí trí thì nói bác đang ngủ, nghĩa là Bác vẫn còn sống mãi với đất nước, với dân tộc ta như trời xanh còn mãi trên đầu. Mỗi ngày ngẩng đầu nhìn ta lại thấy trời xanh, lại thấy Bác. Bác không bao giờ mất, Bác sống mãi cùng dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự việc mà chúng ta làm vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Ta biết thế, ta nghĩ thế nhưng sao tim ta vẫn đau nhói, mắt ta vẫn trào dâng khi nhận ra rằng: 	Bác đã không còn nữa! Khổ thơ thứ hai và ba là một chuỗi các hình ảnh vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh lồng vào nhau như để ca ngời tầm vóc lớn lao của Bác; đồng thời thể hiện lòng tôn kíh vô hạn của tác giả, của nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.
Bài thơ bắt đầu bằng sự kiện Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác và cũng kết thúc bằng chi tiết Mai về miền Nam. Đây là giờ phút sắp chia tay với Bác, tâm trạgn nhà thơ tràn đầy niềm cảm thương xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh cuờng điệu: “Thương trào nước mắt :
 “Mai về miền Nam thương trào nước mắt
 Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
 Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây
 Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
 Tình thương xót nén giữa tâm hồn đã làm nảy sinh bao ước muốn: muốn là con chin để dâng lên tiếng hót vui, muốn là đoá hoa dâng hương thơm ngát, muốn làm cây tre trung hiếu canh gác chi giấc ngủ yên lành của Bác. Nhịp điệu khổ thơ lúc này dồn dập với điệp ngữ muốn làm nhắc lại đến ba lần và các hình ảnh liên tiếp xuất hiện như một dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi.
 Bằng tất cả tình cảm chân thành, Viễn Phương đã làm Viếng lăng Bác trở thành một bản tình ca bất tận để lại ấn tượng sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Bài thơ hay không chỉ vì các nghệ thuật, kĩ sảo độc đáo mà quan trọngj hơn, đó là sự kết hợp hài hòa giữa cái tâm của một nguời con yêu nước và cái tài của người nghệ sĩ. Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọc lại Viếng lăng Bác đều đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và đồng thời cũng thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh toả ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và trái tim Bác Hồ. 
Phần C : PHẦN KẾT LUẬN
 1. Những bài học kinh nghiệm được rút ra:
- Để đạt được hiệu quả cao trong việc bồi dưỡng học sinh, người giáo viên cần có lòng nhiệt huyết cộng với năng lực sư phạm. Đồng thời phải biết cách bồi dưỡng đạt kết quả cao nhất.
- Lấy học sinh làm trung tâm, mọi sự sáng tạo của học sinh trong khi làm bài phải được trân trọng đúng mực. Tạo không khí học tập vui vẻ, thoải mái, trao đổi chân thành giữa thầy và trò.
- Phải làm cho học sinh tin tưởng vào năng lực giảng dạy của mình. Thước đo phẩm chất của người giáo viên bồi dưỡng chính là kết quả học tập của học sinh.
 2. Ý nghĩa của chuyên đề :
- Từ khi huyện Đông Hải được thành lập 01-03-2002 đến nay , chúng ta chưa có một diễn đàn nào để trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Thông qua chuyên đề này, chúng ta có những đóng góp chân thành, cầu thị, cùng hướng tới tương lai.
- Nâng cao chất lượng giảng dạy đặc biệt là chất lượng mũi nhọn là một vấn đề cấp thiết hiện nay, không chỉ khẳng định được thương hiệu của trường mình mà còn nâng cao vị thế của huyện nhà so với huyện bạn. Chuyên đề ra đời trong bối cảnh cả huyện ta đang ra sức thi đua lập thành tích cao trong kì thi học sinh giỏi vòng tỉnh 2012, chúng tôi thiết tha kêu gọi các đồng nghiệp cùng chung tay với chúng tôi lập nhiều thành tích cho huyện nhà.
 3. Những kiến nghị - Đề xuất :
 a. Đối với Ban giám hiệu của các nhà trường, chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề như sau :
	+ Lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi mang tính liên thông cho các năm. Các đội tuyển từ lớp 6 đến lớp 9, phải được duy trì và bồi dưỡng hằng năm. Ban giám hiệu cần tạo cho giáo viên và học sinh có ý thức cao trong việc bồi dưỡng. Phân công giáo viên có năng lực và tâm huyết với việc bồi dưỡng trực tiếp giảng dạy.
	+ Ban giám hiệu cần đưa ra chỉ tiêu phấn đấu cho mỗi giáo viên, kèm theo với những chỉ tiêu đó cần có biện pháp khen thưởng động viên khuyến khích kịp thời đối với giáo viên có thành tích trong công tác mũi nhọn.
	+ Vận động các nguồn quỹ xã hội hóa, tạo kinh phí bồi dưỡng cho giáo viên giảng dạy.
 b. Đối với lảnh đạo Phòng GD-ĐT:
Cần có biện pháp khen thưởng động viên anh, chị em có thành tích cao trong việc bồi dưỡng như: 
	 + Tuyên dương trong các ngày lễ sơ kết, tổng kết năm học 
	 + Có giấy chứng nhận cho giáo viên có thành tích trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi .
	 + Ưu tiên trong công tác xét tặng các danh hiệu thi đua cho các giáo viên có thành tích trong công tác mũi nhọn.
	 Long Điền Đông A, ngày 10 tháng 3 năm 2012
Giáo viên thực hiện
	 Long Hồng Lưu
Mục lục
	Phần A : PHẦN MỞ ĐẦU
	I – Bối cảnh chọn chuyên đề. Trang 1
	II – Lý do chọn chuyên đề. . Trang 1
	III– Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.Trang 1
	IV – Mục đích nghiên cứu.Trang 1
	Phần B : PHẦN NỘI DUNG
	I – Cơ sở lý luận..Trang 2
	II – Thực trạng vấn đề. Trang 23
	III – Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.Trang 311
	IV – Hiệu quả của chuyên đề Trang 11.19
	Phần C : PHẦN KẾT LUẬN
	I – Những bài học kinh nghiệm.. Trang 19
	II – Ý nghĩa của chuyên đề.Trang 19
	III– Những kiến nghị, đề xuất..Trang 1920
	PHỤ LỤC 
	1/ Thiết kế bài soạn 9 - Tập I - II- Nhà xuất bản Giáo Dục.
	2/ Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 – Tập I- II- Nhà xuất bản Giáo Dục.
	3/ Một số bài văn hay lớp 9 – Nhà xuất bản Thanh niên.
	4/ Một số đề thi học sinh giỏi của cấp huyện và tỉnh qua các năm.
	5/ Cấu trúc chương trình ôn tập Ngữ Văn 9- Của Sở Giáo Dục
	6/ Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi – Nhà xuất bản Giáo Dục.

Tài liệu đính kèm:

  • docChuyen de BDHS gioi.doc