Những năm gần đây, cùng với sự lớn mạnh của đất nước; Điền kinh Việt Nam đã có bước phát triển mạnh cả về chất và lượng. Các vận động viên Việt Nam đã có mặt trên nhiều đấu trường quốc tế, châu lục và Đông Nam Á, đồng thời Việt Nam cũng đã đăng cai tổ chức nhiều cuộc thi điền kinh quốc tế.
Để thiết thực giúp các cán bộ, huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài Việt Nam có hiểu biết toàn diện về các điều luật của Hiệp hội quốc tế các liên đoàn Điền kinh (viết tắt là IAAF) nhằm tạo thuận lợi khi tiếp cận với hoạt động điền kinh ngày càng mở rộng trên phạm vi thế giới, Luật Điền kinh xuất bản lần này được biên soạn sát với Luật Điền kinh 2002-2003 của IAAF và có bổ sung thêm một số thay đổi năm 2004 - 2005.
Các điểm mới bổ sung của IAAF trong năm 2004 – 2005 được đánh dấu bằng 2 vạch dọc bên trái trang sách để giúp bạn đọc dễ đối chiếu, so sánh khi sử dụng.
Trong quá trình biên tập, mặc dù rất cố gắng và thận trọng song vì có nhiều vấn đề mới được đưa vào nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong bạn đọc góp ý để lần xuất bản sau Luật Điền kinh ngày càng được hoàn thiện hơn.
LỜI NÓI ĐẦU Những năm gần đây, cùng với sự lớn mạnh của đất nước; Điền kinh Việt Nam đã có bước phát triển mạnh cả về chất và lượng. Các vận động viên Việt Nam đã có mặt trên nhiều đấu trường quốc tế, châu lục và Đông Nam Á, đồng thời Việt Nam cũng đã đăng cai tổ chức nhiều cuộc thi điền kinh quốc tế. Để thiết thực giúp các cán bộ, huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài Việt Nam có hiểu biết toàn diện về các điều luật của Hiệp hội quốc tế các liên đoàn Điền kinh (viết tắt là IAAF) nhằm tạo thuận lợi khi tiếp cận với hoạt động điền kinh ngày càng mở rộng trên phạm vi thế giới, Luật Điền kinh xuất bản lần này được biên soạn sát với Luật Điền kinh 2002-2003 của IAAF và có bổ sung thêm một số thay đổi năm 2004 - 2005. Các điểm mới bổ sung của IAAF trong năm 2004 – 2005 được đánh dấu bằng 2 vạch dọc bên trái trang sách để giúp bạn đọc dễ đối chiếu, so sánh khi sử dụng. Trong quá trình biên tập, mặc dù rất cố gắng và thận trọng song vì có nhiều vấn đề mới được đưa vào nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong bạn đọc góp ý để lần xuất bản sau Luật Điền kinh ngày càng được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I HIỆP HỘI QUỐC TẾ CÁC LIÊN ĐOÀN ĐIỀN KINH Điều 1 CÁC KHÁI NIỆM Điền kinh: Bao gồm các nội dung đi bộ, chạy, nhảy, ném được tiến hành trong sân vận động và các nội dụng chạy, đi bộ thể thao ngoài đường, chạy trên địa hình tự nhiên. IAAF – tên viết tắt của Hiệp hội quốc tế các Liên đoàn Điền Kinh (International Association of Athteties Federations). Hiệp hội khu vực: Hiệp hội khu vực của IAAF chịu trách nhiệm phát triển điền kinh ở một trong 6 khu vực được phân chia theo vị trí địa lý. Thành viên: Gồm tất cả các tổ chức điều hành hoạt động trong lĩch vực điền kinh của các quốc gia đã gia nhập IAAF. CAS: Toà án phân xử tranh chấp về thể thao ở Lausanne. Câu lạc bộ: Một câu lạc bộ hoặc hiệp hội điền kinh nghiệp dư được Liên đoàn thành viên công nhận theo đúng luật lệ của IAAF. Uỷ ban: uỷ ban của IAAF được hội đồng chỉ định theo phạm vi của thể chế. "Nước hay Quốc gia": chỉ khu vực địa lý có chủ quyền, thể chế cai trị được công nhận theo luật quốc tế và các tổ chức điều hành mang tính quốc tế. WADA: cơ quan chống Doping thế giới "Khu vực lãnh thổ": là những vùng hoặc khu vực địa lý không phải là một nước, song có một số mặt nhất định là tự trị, ít nhất là việc tự trị về việc điều hành các hoạt động thể thao của khu vực đó và được IAAF công nhận. Hệ thống thi đấu quốc tế các môn điền kinh của IAAF Các cuộc thi đấu theo chương trình chính thức 4 năm một lần của IAAF. IOC - Ủy ban Olympic quốc tế (International Olympic Commitee). Các cuộc thi đấu điền kinh quốc tế: a) Đại hội Olympic, các giải vô địch thế giới và các Cúp thế giới. b) Các giải vô địch khu vực, vùng và châu lục mở rộng cho tất cả các nước thành viên của IAAF trong vùng, khu vực đó (nghĩa là các giải vô địch do IAAF độc quyền kiểm soát, chỉ bao gồm các nội dung điền kinh). c) Các đại hội thể thao trong một nhóm nước (nghĩa là những đại hội thể thao mà ở đó có một số môn thể thao được tổ chức thi đấu và do đó IAAF không được độc quyền kiểm soát) d) Các giải tranh Cúp khu vực, vùng, châu lục và nội dung dành cho các nhóm tuổi. e) Các cuộc đấu giữa hai hoặc nhiều thành viên (nước) hoặc các Cúp câu lạc bộ kết hợp nhiều nước thành viên. f) Các cuộc thi đấu quốc tế theo lời mời riêng được IAAF chấp nhận. Xem điều 13.3 (b) g) Các cuộc thi đấu quốc tế theo lời mời riêng được một nhóm Liên đoàn khu vực chấp nhận. g) Các cuộc thi đấu khác do một nước thành viên tổ chức và chấp nhận cho các vận động viên nước ngoài có thể tham gia. Nguyên tắc đa số: Đa số thuần túy (quá bán) là có hơn một nửa số phiếu tán thành. Đa số riêng phần là giành được số phiếu tán thành cao nhất đối với một vấn đề riêng, trong một cuộc bỏ phiếu riêng biệt. Đa số tuyệt đối là được 2/3 số phiếu tán thành của những đại biểu bầu cử có mặt tại Hội nghị; 2/3 số phiếu này phải là đại diện cho ít nhất một nửa của tất cả các nước thành viên IAAF. Điều 2 HIỆP HỘI QUỐC TẾ CÁC LIÊN ĐOÀN ĐIỀN KINH IAAF bao gồm các tổ chức điều hành quốc gia về điền kinh được bầu chọn theo đúng luật lệ và chấp thuận tuân thủ các điều lệ, các quy tắc hoạt động của IAAF. Các điều luật và các quy định của các tổ chức điều hành quốc gia ban hành phải tuân thủ theo đúng và không được vượt quá giới hạn các điều luật của IAAF. Trụ sở Hiệp hội quốc tế các liên đoàn điền kinh ở Monaco điều hành về mặt hành chính của IAAF theo đúng các Nghị quyết của Hội nghị và Hội đồng IAAF. Việc thay đổi địa điểm đóng trụ sở chỉ được tiến hành khi có sự phê chuẩn của Hội nghị. Điều 3 CÁC MỤC TIÊU CỦA LIÊN ĐOÀN 1. Xây dựng sự hợp tác hữu nghị và tin cậy giữa tất cả các thành viên, vì lợi ích của các môn thể thao điền kinh, vì hòa bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. 2. Phấn đấu nhằm đảm bảo trong lĩnh vực hoạt động điền kinh không xảy ra sự kỳ thị về chủng tộc, tôn giáo, chính trị và những biểu hiện kỳ thị khác; đồng thời áp dụng tất cả các biện pháp thực tế để ngăn chặn ngay những biểu hiện kỳ thị đó. 3. Phấn đấu nhằm đảm bảo để bất kỳ một nước nào, một cá nhân nào cũng đều được tham gia các cuộc thi đấu điền kinh quốc tế mà không gặp phải bất kỳ một trở ngại nào; cũng như đảm bảo sẽ không có trở ngại nào cho họ trong việc tham gia các cuộc thi đấu quốc tế do IAAF tổ chức. 4. Biên soạn các luật và điều lệ điều hành các cuộc thi đấu quốc tế cho nam và nữ vận động viên điền kinh ở tất cả các độ tuổi. Phấn đấu nhằm đảm bảo không có sự kỳ thị, phân biệt chủng tộc, tôn giáo, chính trị, tuổi tác hoặc giới tính trong việc bình chọn vào các chức vụ của IAAF, kể cả Hội đồng và các Ủy ban của tổ chức này. 5. Đảm bảo để các cuộc so tài giữa các thành viên, kể cả các giải vô địch hay các đại hội của nhóm, khu vực được tổ chức theo đúng luật pháp và các điều luật của IAAF. 6. Kết nạp các tổ chức điều hành hoạt động điền kinh quốc gia được Ủy ban Olympic quốc gia của các nước đó công nhận (ở những nước có Ủy ban này). 7. Giải quyết các tranh chấp nảy sinh giữa các thành viên nếu được các bên yêu cầu. 8. Phối hợp với các ban tổ chức đại hội Olympic trong việc tổ chức các cuộc thi đấu điền kinh và giám sát, điều hành tất cả các khâu chuẩn bị về kỹ thuật theo sự ủy quyền của IOC. 9. Xây dựng các quy định về việc lập kỷ lục thế giới và kỷ lục Olympic, cũng như các kỷ lục về điền kinh khác mà hội nghị nhất trí là có thể công nhận được. 10. Hỗ trợ sự phát triển rộng khắp môn điền kinh trên toàn thế giới và cung cấp những thông tin về kỹ thuận và các lĩnh vực khác cho các thành viên Điều 4 THÀNH VIÊN 1. Tất cả các tổ chức tiến hành hoạt động trong lĩnh vực điền kinh của các quốc gia hoặc lãnh thổ đều có thể trở thành thành viên hợp lệ. Mỗi nước, hoặc khu vực lãnh thổ chỉ có thể là một thành viên và thành viên đó phải được IAAF công nhận là tổ chức duy nhất điều hành toàn bộ các hoạt động thể thao điền kinh ở nước đó, hoặc khu vực lãnh thổ đó. Giới hạn quyền lực của các thành viên được xác định theo các đường biên giới chính trị của nước hoặc khu vực, lãnh thổ mà nó đại diện. 2. Một tổ chức điều hành ở quốc gia muốn trở thành thành viên phải nộp đơn xin gia nhập cùng với bản sao các văn bản pháp quy và các luật lệ hiện hành đối với tổ chức mình lên Hội đồng; Hội đồng có quyền lựa chọn thành viên tạm thời (quan sát viên). Thành viên tạm thời đã được Hội đồng chọn lựa phải được Hội nghị kế đó phê chuẩn và phải đạt được đa số đặc biệt phê chuẩn (xem Điều 1"các khái niệm"). 3. Phải có một bản danh sách ghi tên tất cả các thành viên có quyền bình đẳng về bầu cử tại đại hội. 4. Mỗi thành viên, hàng năm phải đóng lệ phí là 200 USD và phải nộp trước ngày 1 tháng Giêng. 5. Các Liên đoàn thành viên phải đệ trình văn bản báo cáo hàng năm vào quý 1 mỗi năm. Văn bản báo cáo hàng năm phải có đủ các thông tin sau: - Tên, địa chỉ của Liên đoàn, số điện thoại, email,v.v - Danh sách các quan chức Liên đoàn. - Bản sao về các văn bản pháp quy hiện hành của nước sở tại có liên quan đến hoạt động của Liên đoàn. - Số hội viên của Liên đoàn (các câu lạc bộ, vận động viên, huấn luyện viên, các quan chức ) - Các giải vô địch và các cuộc thi lớn được tổ chức trong năm (người lớn, trẻ, nam, nữ v.v). - Các kỷ lục quốc gia được lập tính đến hết năm. - Báo cáo về việc kiểm tra doping ngoài thời gian thi đấu. Khi cần thiết IAAF có thể hỗ trợ các Liên đoàn thành viên để đáp ứng các điều kiện cần thiết đối với kiểm tra doping. Cùng trong thời gian này, các thành viên cũng phải đệ trình những tài liệu như đã nói trên lên Liên đoàn nhóm, khu vực riêng của mình. Những thành viên không báo cáo đầy đủ và kịp thời những vấn đề trên sẽ phải chịu hình phạt thích đáng.. 6. Để việc bầu cử Hội đồng IAAF đúng với điều luật 5.1 cũng như các Ủy ban của các khu vực, việc phân bố các thành viên sẽ theo các khu vực sau đây: Châu phi gồm 53 nước AFRICA Algerria Cape Verde (Capve) Angola Cameroon (Camơrun) Benin Central African Rep. Botswana (Botxoana) (Cộng hoà Trung Phi) Burkina Faso (Bukina Phaxô) Chad (Sát) Burundi Comoros Congo Mali Congo (Dem.Rep) Mauritania (Môritani) Cộng hoà dân chủ nhân dân Công Gô Sao Tome (Sao-tôm ê) Djibouti (Zibuti) Senegal Egypt (Ai Cập) Seychelles (Xây sen) Eritrea Sierraleone (Xeraleôn) Ethiopia (Etiopi) Somalia (Xômali) Equatorial Guinea South Africa (Nam Phi) (Ghine Xích đạo) Sudan (Xu Đăng) Gabon Mauritius (Moriti) Gambia Morocco (Ma Rốc) Ghana Mozambique (Modămbich) Guinea Namibia Guinea-bissau (Ghine-bitxô) Niger Nigeria Swariland (Xoadilan) Rwanda (Ruanđa) Tanzania lvory Coast (Bờ biển Ngà) Togo Kenya Tunisia Lesotho Uganda Liberia Zambia Libya Zimbabue (Dimbabuê) Madagascar Malawi (Malauy) Châu Á gồm 44 nước ASIA Afghanistan Lebanon (Libăng) Bahrain Myanmar Macao Bangladesh Malaysia Yemen Bbutan (Butan) Maldives (Manđivơ) Brunei Mongolia (Mông Cổ) Cambodia (Campuchia) Myanmar PR China (Trung Quốc) Nepal Hong Kong (Hồng Kông) Oman lndia (ấn Độ) Pakistan lndonesia Palestine lran Philippines lraq (lrăc) Quatar Japan (Nhật Bản) Saudi Arabia (ảrập-xêut) Jordan (Gioócđani) Singapore Kazakstan Sri Lanca Kyrghizstan Syria Korea (Hàn Quốc) Chinesetaipei (Đàì Loan) DPR Korea (CHDCNDTT) Tajikistan (Tatglkixtan) Kuwait (Co-oet) Thailand Laos (Lào) Uzbekistan (Udơbêkixtan) Turkmenistan (Tuốcmênlxtan) Vietnam United Arab Emirates Yemen (Các tiểu vương quốc ả rập thống nhất) Châu Âu gồm 49 nước EUROPE Albania ltaly (ý) Andorra Latvia Armenia Liechtenstein Austria (Áo) Lithuania (Litva) Azerbaijan Luxembourg (Luych xăm bua) Belarus Former Yugoslav Belgium (Bỉ) Republĩc of Macedonia Bosnia & Herzegovina (Maxedonhia thuộc Nam Tư cũ) Bulgana Malta Croatia Moldova Cyprus (Sip) Monaco Czech Republic (C.hoà Séc) Ne ... c gia của mình, trước khi có một quyết định nào về tư cách được đưa ra. Khi vận động viên được thông báo rằng anh ta đã bị coi là có vi phạm về doping thì vận động viên đó sẽ đồng thời nhận được thông báo là anh ta được quyền có mặt trước phiên họp xét xử. Nếu vận động viên không có thông báo lại trong vòng 28 ngày kể từ ngày nhận được thì sẽ bị coi là đã khước từ quyền được nghe xét xử. 4. Nếu một vận động viên bị cho là có dính dáng đến việc vi phạm về doping, và điều này được khẳng định sau khi xét xử có mặt vận động viên đó hoặc sau khi vận động viên này khước từ quyền được nghe xét xử của mình thì sẽ bị tuyên bố không đủ tư cách. Tuyên bố này phải do IAAF đưa ra nếu việc kiểm tra doping thuộc trách nhiệm của IAAF; các trường hợp khác sẽ do nước thành viên đưa ra. Nếu, theo quan điểm của IAAF, nước thành viên này đã không tuyên phạt vận động viên một cách thích đáng là không đủ tư cách thì IAAF sẽ tự đưa ra tuyên phạt này. Ngoài ra, trường hợp xét nghiệm đã được tiến hành trong khi thi đấu, vận động viên đó sẽ bị truất quyền thi đấu khỏi cuộc thi đấu đó và kết quả này sẽ được sửa đổi cho thích hợp. Tình trạng không đủ tư cách của vận động viên đó sẽ bắt đầu từ ngày bị đình chỉ. Các thành tích đạt được từ ngày lấy mẫu thử sẽ bị hủy bỏ. Ghi chú: Trong những trường hợp việc kiểm tra doping thuộc trách nhiệm của IAAF (xem Điều luật 58.1), quyết định một vận động viên đã có vi phạm về doping sẽ do nước thành viên đưa ra và khi nhận được quyết định của nước thành viên này, IAAF sẽ tuyên bố vận động viên đó không đủ tư cách trong một thời hạn thích hợp theo Điều luật 60.2. Trong tất cả các trường hợp khác, nước thành viên có trách nhiệm tuyên bố vận động viên không đủ tư cách. Nếu nước thành viên này, sau khi đã tiến hành xét xử, khôi phục tư cách cho một vận động viên và uỷ ban xét xử này do Hội đồng bổ nhiệm theo đúng Điều luật 21.7, liên quan đến trường hợp phải chuyển lên CAS, thì Hội đồng có thể tạm đình chỉ đối với vận động viên trong khi chờ quyết định của CAS. 5. Trường hợp một nước thành viên đã, theo Điều 21.1, uỷ quyền tiến hành việc xét xử của mình cho một cơ quan pháp luật, Hội đồng xét xử hoặc Hội đồng kỷ luật nào đó (bất kể là ở trong hay ngoài nước thành viên này), hoặc vì một lsy do nào khác, một cơ quan pháp luật, hội đồng xét xử hoặc hội đồng kỷ luật nào đó ở ngoài nước thành viên này có trách nhiệm đảm bảo điều kiện để vận động viên có mặt tại phiên xét xử theo Điều luật 59.3, trên tinh thần của Điều luật21.3(i) và(ii), quyết định của cơ quan pháp luật, hội đồng xét xử hoặc hội đồng kỷ luật đó sẽ được coi là quyết định của nước thành viên này. 6. Trường hợp việc xét xử tiến hành theo đúng luật 59.3, nước thành viên phải chịu trách nhiệm chứng minh, sao cho không còn lý do để nghi ngờ, rằng đã có vi phạm về doping. 7. Những qui định cụ thể hơn đối với việc thi hành các biện pháp kỷ luật phải theo đúng " Những qui định về thủ tục kiểm tra doping". Xem thêm Điều luật 21 ở trên để thực hiện đúng các thủ tục hợp lệ. Điều 60 CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT 1. Theo điều luật này, những trường hợp sau đây được coi là những vi phạm về việc sử dụng chất kích thích (xem thêm điều luật 55.2): (i) Có các chất đã bị cấm sử dụng trong các chất dịch hoặc các loại mô lấy từ cơ thể vận động viên. (ii) Sử dụng hoặc tận dụng lợi thế của các phương pháp đã bị cấm; (iii) Thừa nhận đã lợi dụng hoặc đã sử dụng, hoặc đã thử dùng một chất đã bị cấm hoặc một phương pháp đã bị cấm; (iv) Vận động viên không thực hiện hoặc từ chối yêu cầu thực hiện việc kiểm tra doping (Điều 56.1). (v) Việc không thực hiện đầy đủ hoặc sự từ chối không cung cấp mẫu máu của một vận động viên; (vi) Hỗ trợ hoặc kích động những người khác sử dụng các chất đã bị cấm hoặc các phương pháp đã bị cấm, hoặc thừa nhận đã hỗ trợ hoặc xúi dục người khác (Điều 56.3); (vii) Kinh doanh, vận chuyển, phân phát hoặc bán bất cứ một chất đã bị cấm. 2. vận động viên có vi phạm về doping sẽ bị truất bỏ tư cách trong những trường hợp sau đây: a) Vi phạm điều 60.1 (i) hoặc 60.1 (iii) nêu trên liên quan đến những chất đã được liệt kê trong phần I, Biểu 1 của "Những qui định về thủ tục kiểm tra doping" hoặc bất kỳ vi phạm nào khác được nêu ở Điều 60.1. (i) Vi phạm lần đầu tiên - thời hạn ít nhất là 2 năm kể từ ngày phiên xét xử ra quyết định là có vi phạm về doping. Nếu vận động viên đã bị tạm đình chỉ trong một khoảng thời gian trước khi bị truyên bố không đủ tư cách, thì khoảng thời gian tạm đình chỉ này sẽ được trừ vào thời gian phạt không đủ tư cách do phiên xét xử thích hợp áp đặt. (ii) Vi phạm lần thứ hai - phế truất suốt đời. b. Vi phạm vào điều 60.1 (i) hoặc điều 60.1 (iii) nêu trên, có dính dáng đến các chất trong phần II, Biểu 1 của " Những qui định về thủ tục kiểm tra doping" (i) Vi phạm lần đầu tiên - sẽ bị cảnh cáo trước dư luận và bị truất quyền thi đấu khỏi cuộc thi đấu mà tại đó đã lấy được mẫu xét nghiệm; (ii) Vi phạm lần thứ 2 - bị phế truất tối thiểu là 2 năm kể từ ngày phiên xét xử ra quyết định là có vi phạm về doping. Nếu vận động viên đã bị tạm đình chỉ trong một khoảng thời gian trước khi bị tuyên bố không đủ tư cách thì khoảng thời gian tạm đình chỉ này sẽ được trừ vào thời gian phạt không đủ tư cách cho phiên xét xử thích hợp áp đặt. (iii) Vi phạm lần thứ 3 - phế truất suốt đời. Ghi chú:Vi phạm Điều 60.2 (a) được coi như vi phạm lần đầu. c. Vi phạm vào điều 60.1 (vii) có liên quan đến bất cứ chất nào được ghi ở Biểu 1 của " Những qui định về thủ tục kiểm tra doping" sẽ bị phế truất suốt đời. 3. Trường hợp các chất phát hiện được trong các loại mô, hoặc các chất dịch lấy từ cơ thể vận động viên thuộc phần I và II của Biểu 1 thuộc " Những qui định về thủ tục kiểm tra doping" thì việc xác định thời hạn truất bỏ tư cách trước hết phải căn cứ vào những vi phạm các chất thuộc phần I trong Biểu 1. 4. Một vận động viên đã bị phát hiện và tuyên bố là đã vi phạm điều luật 57.4 sẽ bị truất bỏ tư cách trong những thời hạn sau đây: i) Vi phạm lần đầu - bị cảnh cáo trước dư luận; ii) Vi phạm lần thứ hai - tối thiểu 3 tháng; iii) Vi phạm lần thứ ba - tối thiểu 2 năm kể từ ngày phiên xét xử đưa ra quyết định là đã có vi phạm lần thứ ba. 5. Trường hợp một vận động viên đã bị tuyên bố không đủ tư cách thì không có quyền nhận bất cứ phần thưởng nào hoặc bất kỳ một khoản tiền cấp thêm nào mà lẽ ra anh ta đã có quyền nhận khi có tư cách để có mặt và thi đấu trong cuộc thi mà anh ta đã bị phát hiện là đã vi phạm về doping, hoặc trong bất cứ cuộc đấu nào tiếp theo đó. IAAF và tất cả các nước thành viên khi tổ chức thi đấu phải đảm bảo đưa vào hợp đồng với những nhà tổ chức một điều khoản để thực hiện điều này có hiệu lực. 6. Trường hợp một vận động viên đã vi phạm về doping theo điều luật 60.1 (iii) thì mọi kết quả, danh hiệu kèm theo với vi phạm sẽ không được IAAF và Liên đoàn thành viên có vận động viên đó công nhận, kể từ ngày vận động viên thừa nhận đối với việc vi phạm về doping. 7. Khi thời hạn bị truất bỏ tư cách đã hết, một vận động viên sẽ nghiễm nhiên được phục hồi tư cách mà không cần phải có thủ tục nào khác của vận động viên hoặc của Liên đòan quốc gia của vận động viên đó với điều kiện là vận động viên này đã thực hiện đúng điều luật 57.6. 8. Nếu một kết quả xét nghiệm được tiến hành đối với một vận động viên không đủ tư cách ( xem điều 57.6) cho thấy rõ ràng là dương tính, thì bằng chứng này sẽ cấu thành một tội danh vi phạm doping khác (riêng), và vận động viên đó sẽ phải chịu một hình phạt thích hợp nữa. 9. Trong những trường hợp ngoại lệ, một vận động viên có thể gởi đơn lên Hội đồng (IAAF) để xin được khôi phục lại tư cách trước khi hết thời hạn xử phạt truất bỏ tư cách của IAAF. Việc một vận động viên đã có những sự hỗ trợ có giá trị cho nước thành viên trong quá trình điều tra vấn đề doping do thành viên đó tiến hành, thì trường hợp đó, theo thông lệ sẽ được Hội đồng xem xét để có cấu thành trường hợp ngoại lệ. Một quyết định về các trường hợp ngoại lệ chỉ được đưa ra nếu vận động viên có được ba lần xét nghiệm âm tính do nước thành viên hoặc IAAF tiến hành, với thời hạn ít nhất là 1 tháng giữa mỗi lần xét nghiệm. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng chỉ có những trường hợp ngoại lệ đích thực mới biện minh được cho việc rút ngắn thời hạn (giảm án). Chi tiết cụ thể về thủ tục và những tiêu chuẩn áp dụng phải theo đúng " Những qui định về thủ tục kiểm tra doping". Điều 61 VIỆC CÔNG NHẬN KẾT QUẢ KIỂM TRA DOPING 1. Mọi thành viên phải thông báo cho Tổng thư ký IAAF ngay, và trong mọi hoàn cảnh, trong vòng 2 tuần, về bất kỳ những kết quả dương tính nào thu được trong quá trình kiểm tra doping do thành viên đó tiến hành. Các kết quả được phát hiện này phải được đưa ra xem xét tại cuốc họp gần nhất của Hội đồng IAAF, Hội đồng sẽ thay mặt tất cả các thành viên của IAAF xác nhận mỗi kết quả dương tính đã thu được. Các kết quả dương tính trong kiểm tra doping do thành viên đó tiến hành khi đó sẽ được xác nhận dứt khoát và buộc tất cả các thành viên có liên quan phải tiến hành các biện pháp cần thiết để làm cho quyết định này có hiệu lực. 2. Trường hợp việc kiểm tra doping là do IAAF đã tiến hành thì mỗi thành viên phải chấp nhận các kết quả của việc kiểm tra doping đó và phải có các biện pháp cần thiết để thi hành hiệu lực quyết định. 3. Hội đồng có thể thay mặt tất cả các thành viên của IAAF, công nhận các kết quả kiểm tra doping do các tổ chức thể thao khác với IAAF tiến hành, hoặc do một thành viên của tổ chức thể theo đó tiến hành theo các điều luật và các thủ tục khác so với những thủ tục và các điều luật về việc này của IAAF, nếu như điều đó chứng minh được đầy đủ việc xét nghiệm đã được tiến hành hoàn toàn hợp thức và những điều luật của các tổ chức tiến hành các xét nghiệm này đủ điều kiện bênh vực cho các vận động viên. 4. Trường hợp được đưa ra để công nhận, tại một cuộc họp của Hội đồng, các kết quả kiểm tra doping đã được tiến hành bởi một tổ chức thể thao không phải là IAAF hoặc bởi một thành viên của tổ chức thể theo đó theo đúng các điều luật và các thủ tục khác so với các điều luật và thủ tục của IAAF về việc đó thì vận động viên có khả năng bị dính líu phải được báo trước bằng văn bản trong thòi hạn một tháng trước ngày khai mạc cuộc họp thích hợp. Nếu người này muốn gửi kháng nghị bằng văn bản lên Hội đồng thì kháng nghị phải được chuyển tới Tổng thư ký chậm nhất là 7 ngày trước ngày khai mạc cuộc họp nói trên. 5. Một vận động viên có quyền tham dự cuộc họp hội đồng thích hợp và có quyền kháng nghị nếu thấy cần thiết. 6. Nếu Hội đồng quyết định rằng kết quả kiểm tra doping do một cơ quan không phải là IAAF đã tiến hành được công nhận thì vận động viên đó sẽ bị coi là đã vi phạm điều luật thích hợp của IAAF và sẽ phải chịu những hình phạt giống như vận động viên đã vi phạm những điều như vậy. Tất cả các thành viên phải có mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo cho quyết định này có hiệu lực
Tài liệu đính kèm: