Ngữ văn lớp 9 - Bí quyết ôn thi môn Văn hiệu quả

Ngữ văn lớp 9 - Bí quyết ôn thi môn Văn hiệu quả

Bí quyết ôn thi môn Văn hiệu quả

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường, giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội - chia sẻ một số bí quyết ôn và thi tốt môn Văn học trong kì thi đại học, cao đẳng

1. Chọn thầy học, chọn sách đọc

Chỉ những người có năng lực đặc biệt xuất sắc mới có khả năng tự học và đạt hiệu quả như mong muốn. Hầu hết thí sinh dự thi đại học và cao đẳng không có được năng lực ấy.

Vì vậy, các em cần sự hướng dẫn của những cuốn sách tốt, những thầy cô giỏi, có trách nhiệm và giàu kinh nghiệm. Hiện nay, tài liệu tham khảo và luyện thi tràn ngập thị trường. Để mua được sách tốt, các em nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu.

Khi đọc tài liệu tham khảo, các em nên ghi chép, suy nghĩ, tán thành, hoặc phản đối, bởi không phải mọi kiến thức trong sách vở đều đúng. Những thắc mắc, nghi ngờ, nên ghi lại để hỏi cho rõ.

Tất nhiên, việc đọc tài liệu tham khảo là cần thiết, nhưng không thể thay thế được việc nghe giảng trên lớp. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, các em sẽ thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn

Nếu học ở các trung tâm luyện thi, các em nên tìm học những người có khả năng trang bị một hệ thống phương pháp, kĩ năng, chứ không nên quá thiên về chi tiết bài giảng.

 

doc 13 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 857Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Ngữ văn lớp 9 - Bí quyết ôn thi môn Văn hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bí quyết ôn thi môn Văn hiệu quả
Thạc sĩ Phạm Hữu Cường, giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội - chia sẻ một số bí quyết ôn và thi tốt môn Văn học trong kì thi đại học, cao đẳng
1. Chọn thầy học, chọn sách đọc
Chỉ những người có năng lực đặc biệt xuất sắc mới có khả năng tự học và đạt hiệu quả như mong muốn. Hầu hết thí sinh dự thi đại học và cao đẳng không có được năng lực ấy.
Vì vậy, các em cần sự hướng dẫn của những cuốn sách tốt, những thầy cô giỏi, có trách nhiệm và giàu kinh nghiệm. Hiện nay, tài liệu tham khảo và luyện thi tràn ngập thị trường. Để mua được sách tốt, các em nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu. 
Khi đọc tài liệu tham khảo, các em nên ghi chép, suy nghĩ, tán thành, hoặc phản đối, bởi không phải mọi kiến thức trong sách vở đều đúng. Những thắc mắc, nghi ngờ, nên ghi lại để hỏi cho rõ. 
Tất nhiên, việc đọc tài liệu tham khảo là cần thiết, nhưng không thể thay thế được việc nghe giảng trên lớp. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, các em sẽ thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn
Nếu học ở các trung tâm luyện thi, các em nên tìm học những người có khả năng trang bị một hệ thống phương pháp, kĩ năng, chứ không nên quá thiên về chi tiết bài giảng.
2. Tham khảo đề thi, đáp án, biểu điểm 
Các em nên tham khảo đề thi, đáp án, biểu điểm chính thức và dự bị những năm trước của Bộ GD&ĐT. Nó sẽ giúp học sinh có một định hướng rõ ràng hơn trong việc ôn tập và làm bài thi. 
Khi đọc những tài liệu này, cần lưu ý đến điểm số dành cho từng ý; tại sao ý này điểm nhiều, ý kia điểm ít; cũng như trình tự sắp xếp các ý, phạm vi dẫn chứng
Các em cũng nên học hỏi cách làm bài, kiến thức, cách mở bài, kết bài, triển khai ý, cách chuyển ý, trình bày, diễn đạt qua những bài văn đạt điểm cao trong các kì thi đại học trước đó, đồng thời so sánh các bài viết này với đáp án và biểu điểm của Bộ, xem bài làm thiếu ý nào, có ý nào mới hơn, tại sao lại được điểm cao như thế 
Các em có thể tìm thấy các tài liệu này tại địa chỉ sau:  của Bộ GD&ĐT.
3. Không học tủ, nhưng cần có trọng tâm 
Có thí sinh cho rằng năm trước, đề thi đã ra vào bài này, phần này, nên năm sau sẽ không rơi vào bài đó nữa. Nhận thức như vậy là chủ quan, vừa sai lầm, vừa thiển cận.
Nhiều em ngại khó, nên thường bỏ qua các bài khó hoặc ít hấp dẫn như Người lái đò sông Đà, Các vị La Hán chùa Tây phươngNhưng đề thi vẫn có thể rơi vào các bài đó, mà khi đề đã ra, thì dù không thích cũng phải làm.
Đề thi môn Văn thường kiểm tra toàn diện kiến thức văn học sử (về giai đoạn văn học 1945 - 1975 và 5 tác giả), cũng như tác phẩm văn học cả trước và sau Cách mạng, cả thơ và văn, thậm chí cả kịch (như chương trình phân ban), đồng thời kiểm tra toàn diện các kĩ năng tóm tắt, bình giảng, phân tích, so sánh, giải thích, chứng minh... 
Trước đây, dung lượng kiến thức văn học lãng mạn và văn học hiện thực trước Cách mạng chỉ chiếm khoảng 30% (câu 3 điểm), nhưng trong đề thi của khối D, M các năm 2002 và 2007 đã chiếm tới 50% (câu 5 điểm).
Vì vậy, các em nên cố gắng ôn tập đều ở tất cả các phần, các bài trong chương trình thi, không nên học tủ. Với cách ra đề phân thành nhiều câu, nhiều phần như chủ trương của Bộ, thì học tủ là rất nguy hiểm. Tuy vậy, các em vẫn nên ôn tập có trọng tâm, trọng điểm. 
Bên cạnh ôn tập kiến thức, cần rèn luyện kĩ năng làm các kiểu bài tóm tắt về tác giả, tác phẩm và giai đoạn văn học; kĩ năng phân tích văn xuôi và bình giảng thơ; kĩ năng phân tích đề, tìm ý, triển khai ý, mở bài, kết bài, chuyển đoạn, trình bày, diễn đạt
Cần bám sát chương trình của Bộ và sách giáo khoa, vì đó là văn bản pháp quy của nhà nước, mà đề thi không được nằm ngoài. Lưu ý rằng tất cả những gì có trong sách giáo khoa đều có thể thi.
Thạc sĩ 
Thạc sĩ Phạm Hữu Cường.
Phạm Hữu Cường tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1993, bảo vệ học vị Thạc sĩ khoa học ngữ văn năm 2002, từng hơn 15 năm giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi văn quốc gia. 
Hiện tại, Thạc sĩ Cường tham gia giảng dạy tại một trường đại học ở Hà Nội, luyện thi ở trung tâm Đa Minh (Bách Khoa). 
Anh là tác giả của các đầu sách "Tuyển tập đề và chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia môn Văn", "Lối nhỏ đến trang văn" (2 tập), "Mười hai chuyên đề ôn luyện thi đại học - cao đẳng môn Văn", "Bí quyết ôn thi đại học môn Văn"(2 tập), ""Phương pháp ôn tập và hướng dẫn giải các kiểu bài tiêu biểu trong kì thi đại học môn Văn" (3 tập).
Mới đây nhất, anh viết cuốn sách “Phương pháp ôn tập và hướng dẫn giải các kiểu bài tiêu biểu trong kì thi đại học môn Văn”, gồm 3 tập
4. Khám phá tác phẩm trong các mối liên hệ
* Các mối liên hệ bên ngoài:
Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn, nhưng cũng là con đẻ của hoàn cảnh lịch sử, thời đại, là nơi ghi dấu ấn tâm hồn, tư tưởng, tài năng và tâm huyết nhà văn trong một thời điểm nhất định. Muốn nắm bắt, cần phải biết tác phẩm đó gắn liền với hoàn cảnh lịch sử nào. 
Ở đây, môn văn gián tiếp đòi hỏi thí sinh phải có kiến thức về lịch sử, nếu không khó mà phân tích đúng. Vì vậy, các em cần nắm chắc hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa nhan đề và kết cấu cảm hứng để hiểu sâu và chính xác về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật tác phẩm, đồng thời qua tác phẩm phải thấy được cả hiện thực thời đại mà nhà văn sống và sáng tác. 
“Qua nhà thơ, người ta tìm thấy tầm cỡ thời đại” (Jiri Worlker). Nếu không ra đời vào mùa xuân năm 1948, thời điểm mà vấn đề “nhận đường” (Nguyễn Đình Thi), vấn đề “lột xác” (Nguyễn Tuân) đang đặt ra một cách gay gắt đối với các văn nghệ sĩ trí thức tiểu tư sản lớp trước, thì “Đôi mắt” sẽ không phải là tuyên ngôn nghệ thuật của một thế hệ nhà văn đi theo kháng chiến như Nam Cao, Tô Hoài. 
Mặt khác, cần tránh xu hướng xã hội học dung tục, chỉ tìm thấy ở văn chương những ý nghĩa xã hội và đạo đức. Chẳng hạn, không nên hiểu dòng thơ “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”(Chiều tối - Hồ Chí Minh) là “tố cáo chế độ Quốc dân đảng bóc lột sức lao động của trẻ em”, hoặc dòng thơ “Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san” (Giải đi sớm - Hồ Chí Minh ) là “nhân dân ủng hộ lãnh tụ” hay “bọn lính áp giải vây quanh người tù cô đơn nơi đất khách” như có người từng hiểu
Để hiểu sâu sắc và chính xác về tác phẩm, cần đặt nó trong mối liên hệ với quan điểm sáng tác, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Chỉ khi liên hệ với quan niệm về người tài của Nguyễn Tuân, mới hiểu được tại sao Huấn Cao và ông lái đò sông Đà lại được nhà văn ngợi ca là những người tài hoa, nghệ sĩ hơn đời. 
“Thơ duyên” chính là hiện thân cho quan điểm “Để tâm hồn ràng buộc bởi muôn dây/ Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến” của Xuân Diệu, còn "Hai đứa trẻ" là sự thực thi thiên chức của một nhà văn luôn khát khao “nâng đỡ cái tốt đẹp để trong đời có nhiều công bằng hơn, yêu thương hơn”
Khi tìm hiểu một tác phẩm cũng phải đặt nó trong mối liên hệ mật thiết với giai đoạn văn học, trào lưu văn học, thời kì hoặc phương pháp sáng tác. Chẳng hạn, khi tìm hiểu các bài thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và Thâm Tâm, cần đặt chúng trong đặc điểm tư tưởng nghệ thuật của phong trào Thơ Mới lãng mạn 1932 - 1945. 
Cần lưu ý các tác phẩm Hai đứa trẻ, Chữ người tử tùđược sáng tác theo phương pháp lãng mạn nhưng vẫn có một cảm quan hiện thực sâu sắc.  
* Các mối liên hệ bên trong:
Mỗi tác phẩm văn chương thường có hai phần nổi bật: nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Hai phần này thường thống nhất với nhau. Tìm hiểu nội dung là nhằm chỉ ra tư tưởng và quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống, tìm hiểu hình thức là để chỉ ra tài năng nghệ thuật của nhà văn, cũng như sự thống nhất và phù hợp của hình thức với nội dung. 
Rất ít khi đề thi yêu cầu trực tiếp là làm rõ hai mặt này. Tuy nhiên, trên thực tế, để giải quyết vấn đề nào đó của đề thi, trong quá trình đi vào nội dung nhất thiết phải trình bày nội dung đó được biểu đạt bằng những phương tiện nghệ thuật nào, tìm sự hài hoà giữa nội dung và hình thức, giữa ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật. 
Nên từ hình thức tìm ra nội dung và tránh diễn xuôi tác phẩm, văn thơ. Để diễn tả những cung bậc của một tình yêu trong xa xôi cách trở với nỗi nhớ mong “cả trong mơ còn thức”, với niềm lo nghĩ, với tình cảm thủy chung, tha thiết, chân thành và cả niềm tin mãnh liệt vào sức mình trong việc vượt qua những xa xôi, cách trở, mất còn để đến với người mình yêu, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng xa bờ, nhớ bờ, đồng thời sử dụng thể thơ 5 chữ với lối ngắt nhịp cân đối, âm điệu hài hòa. 
Nhịp điệu của bài thơ chính là nhịp điệu của một cõi lòng đang bị con sóng tình yêu khuấy động. 
Thế giới nghệ thuật của tác phẩm là thế giới hình tượng do nhà văn sáng tạo ra, có quy luật riêng, thang bậc giá trị riêng, thời gian và không gian nghệ thuật riêng. 
Vì vậy khi tìm hiểu tác phẩm, không được đồng nhất nó với thế giới thực tại ngoài đời, ngay cả khi nhân vật được xây dựng từ một nguyên mẫu có thật như Hoàng đế An nam trong “Vi hành”, Hoàng trong “Đôi mắt”, Đào trong “Mùa lạc”, Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” 
“Mọi chân lí sẽ trở nên sai lầm, nếu chúng ta cứ xét đoán nó trên cơ sở của những kinh nghiệm hàng ngày” (Ph. Ăngghen). Chân lí nghệ thuật trong tác phẩm văn học cũng vậy.
Thế giới hình tượng trong tác phẩm được xây dựng nên từ các chi tiết nghệ thuật. Tìm hiểu tác phẩm phải luôn xuất phát từ chi tiết. Mỗi chi tiêt trong tác phẩm là một ô cửa mở ra cả một thế giới, là những “chi tiết mang thai” (Hêghen), bởi nó có khả năng sinh nở ra những ý nghĩa mới. 
Tài năng của một nhà văn lớn bao giờ cũng được làm nên từ những chi tiết nhỏ. Vì vậy, về văn xuôi, các em nhất định phải nắm được diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó. 
Về thơ, phải nắm được cảm hứng chủ đạo của nhà thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc. 
Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trongTừ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn. 
Chẳng hạn, “Đào đã đứng tựa cột bương, cả thân người trên bị mái gianh che tối” là một chi tiết thể hiện cái nhìn tinh tế và nhân ái của nhà văn. Nguyễn Khải đã dùng bóng tối của mái gianh để che đi cái xấu xí, thua thiệt trong ngoại hình của Đào, đồng thời làm nổi bật hơn vẻ đẹp của niềm khát khao hạnh phúc. 
Không nên bỏ qua các chi tiết quan trọng, cũng không nên quá sa đà vào phân tích chi tiết, để tránh tình trạng chỉ thấy cây mà không thấy rừng.
Thực hiện phương châm tăng cường chất văn trong việc dạy và học văn, cũng cần bám sát văn bản ngôn từ và thế giới hình tượng của tác phẩm, chú ý giọng điệu, kết cấu tác phẩm. 
Chẳng hạn bài thơ “Đây thôn Vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử được kết cấu toàn bằng những lời ướm hỏi, ba khổ thơ là ba câu hỏi liên tiếp, nên bài thơ sẽ chủ yếu thể hiện niềm băn khoăn day dứ ... , 2, hoặc 3, 4 ý nghĩa sau:
- Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm làm dâu, Mị có ý định thắp sáng thêm căn phòng u tối của mình.
- Người con dâu khốn khổ ấy như đã lấy chính ánh sáng của niềm khát khao ham sống, khát khao hạnh phúc tình yêu vừa bừng lên trong tâm hồn mình để tiếp thêm ánh sáng cho ngọn đèn le lói ở góc phòng.
- Đó cũng là hành động của sự tự thức tỉnh, khát khao thắp sáng cuộc đời mình.
- Nó gợi nhớ chi tiết nhân vật Tràng giơ cái chai dầu con con lên khoe với tất cả niềm hãnh diện, ngay giữa những ngày tối sầm lại vì đói khát trong truyện ngắn  “Vợ nhặt” của Kim Lân. 
Hóa ra, ngay trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, những người nông dân như Mị, như Tràng vẫn khát khao thắp lên ánh sáng của sự sống, của hi vọng, của niềm tin
12. Tuân thủ nghiêm các nguyên tắc 
Để đạt điểm cao, bài văn phải được trình bày sáng sủa, sạch đẹp. Vì vậy, trong quá trình triển khai ý làm bài, các em nên trình bày mỗi ý thành một đoạn văn, được phân biệt với nhau bởi các dấu chấm xuống dòng. 
Khi xuống dòng, cũng nên viết chữ đầu tiên lùi vào 1/5 - 1/4 trang giấy, tính từ lề. Cách trình bày như thế vừa giúp bài văn sạch đẹp hơn, gây được thiện cảm của người chấm, các ý trong bài nổi bật hơn, người chấm không thể bỏ sót ý, nên bài văn có lợi hơn về điểm số. 
Cần hết sức tránh việc dập xóa, để tránh cho bài làm không bị xấu và bẩn. Trong trường hợp bất khả kháng, bắt buộc phải bỏ phần vừa viết, cách tốt nhất và duy nhất là dùng thước kẻ gạch đè lên để bỏ đi, rồi viết tiếp. Chỉ gạch một nét, với độ đậm mực vừa phải, không ấn bút vì dễ làm rách giấy, hoặc làm xấu bài thi. 
Các em tuyệt đối không được dùng bút xóa, vì dễ bị nghi là đánh dấu bài. Cũng không nên gạch bằng tay, không nên dùng các móc ngoặc để đánh dấu đoạn văn bỏ đi, và viết thêm chữ “sai” hay “bỏ” ở bên cạnh như các em quen làm. 
Diễn đạt là quá trình vô cùng quan trọng, sánh ngang với việc tìm ý cho bài văn. Nếu “gột” không khéo, không đúng, thì dù “bột” đã được chuẩn bị tốt đến đâu, cũng có nguy cơ trở thành “bánh đúc”, thậm chí “cám lợn” chứ không phải thành “hồ” như mong muốn. 
Không có ý, thì không có gì để viết, nhưng có ý đầy trong đầu, mà không biết cách nói ra, thì ý dù hay và sâu sắc đến đâu cũng trở nên vô nghĩa. Diễn đạt là quá trình “gột” để “bột” thành “hồ”, quá trình làm cho những ý tưởng trừu tượng, lớn lao biến thành lời văn cụ thể, tràn đầy hình ảnh và cảm xúc, nghĩa là biến bộ xương ý tưởng thành một cơ thể sống động, có da có thịt ,có sự sống, có linh hồn.
Do thói quen xấu và do không được uốn nắn, sửa chữa từ các cấp dưới, nhiều thí sinh dự thi đại học vẫn viết sai chính tả, vẫn viết câu văn què cụt, không có chủ ngữ, vị ngữ, hoặc nhầm lẫn giữa các thành phần câu, nghĩa là chưa nói thông viết thạo tiếng Việt. Đây là lỗi thường bị trừ điểm rất nặng trong các bài văn. 
Cũng cần tránh các kiểu diễn đạt mập mờ, dễ gây hiểu nhầm cho người đọc, kiểu “Chị Dậu bảo với người nhà lí trưởng: Mày đánh chồng bà đi, bà cho mày xem. Rồi chị cho chúng nó xem thật!”. 
Vì vậy, trước hết, các em cần phải rèn luyện cho mình một cách diễn đạt đúng, nghĩa là nói và viết đúng ngữ pháp. Nếu chưa giỏi diễn đạt, hãy viết các câu văn ngắn, giản dị, ít thành phần câu, tránh cầu kì, rườm rà vì dễ mắc lỗi ngữ pháp.      
Khi đã diễn đạt đúng, mới tiến dần lên tập luyện để diễn đạt hay hơn, khéo léo, tinh tế hơn. Kĩ năng diễn đạt này sẽ rất cần thiết cho các em trong cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ, giao tiếp, kể cả các giao dịch kinh tế sau này. 
Ngồi sau xe môtô của một chàng trai đang phóng rất nhanh trên đường, một cô gái diễn đạt tầm thường sẽ nói: “Sao anh đi như thằng điên thế?”, một cô gái diễn đạt khéo hơn có thể nói “Chậm thôi anh, đi nhanh thế, em sợ lắm”, còn một cô gái luôn lo lắng cho chàng trai và diễn đạt tinh tế hơn sẽ nói: “Chậm thôi anh, đi nhanh thế, nhỡ ra anh bị làm sao, thì em sống làm sao nổi?” 
Qua một ví dụ đời thường như thế, chắc các em đủ hiểu về tầm quan trọng và hiệu quả của kĩ năng diễn đạt, cũng như ý nghĩa của môn văn trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho mỗi người. Giống như mọi ngành nghệ thuật khác, văn học cũng hướng tới “phục vụ cho một nghệ thuật cao quý nhất: nghệ thuật sống trên trái đất” (B.Brecht).
Để diễn đạt hay, cần sử dụng linh hoạt các kiểu câu khi diễn đạt, sử dụng linh hoạt các hình ảnh, các phép tu từ, chuyển nghĩa để lời văn có cảm xúc và chất văn. Lời văn phải trau chuốt, uyển chuyển, có giọng điệu riêng. Nhiều khi chỉ thay đi vài chữ là câu văn đã hay hơn, sâu sắc hơn. 
Chẳng hạn, thay cho cách viết “Bài thơ Các vị La Hán chùa Tây phương được in trong tập Bài thơ cuộc đời của Huy Cận” , hãy viết “Bài thơ Các vị La Hán chùa Tây phương là một trong những Bài thơ cuộc đời của Huy Cận”. Cách viết thứ hai không chỉ nêu được xuất xứ mà còn đánh giá được tầm vóc và vị trí của bài thơ đối với đời thơ Huy Cận. 
Thay cho cách diễn đạt “Sức sống của Mị hồi sinh mạnh mẽ khi mùa xuân đến”, hãy tìm một cách diễn đạt có hình ảnh và cảm xúc hơn, chẳng hạn “Như một mầm cây ngủ quên lâu ngày trong đất, gặp hơi ấm của mùa xuân, sức sống nơi tâm hồn Mị bỗng cựa mình tỉnh giấc và vươn mình trỗi dậy”. 
Các em nên học cách diễn đạt của nhà phê bình Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”. Nói về chất cổ điển của “Tràng giang”, ông viết: “Huy Cận đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”. Diễn đạt đúng ngữ pháp, khéo léo, tinh tế, có hình ảnh và cảm xúc sẽ giúp bài văn có chất văn và đạt điểm cao.
Chữ viết đẹp, rành mạch, sáng sủa, đúng chuẩn mực chính tả cũng là một lợi thế để bài văn có điểm cao hơn. Các em nên rèn luyện chữ viết của mình, nếu không được đẹp, cũng cần phải viết cho rõ ràng, ngay ngắn, đúng chính tả. 
Tuyệt đối không được viết tắt, viết thiếu nét, thiếu dấu, viết hoa tự do (chỉ viết hoa tên riêng, hoặc sau khi chấm câu), viết ngọng (như nhầm lẫn giữa l và n, x và s, ch và tr). 
Chỉ cần 5 lỗi chính tả hoặc 1 lỗi chính tả lặp lại 5 lần, bài làm có thể đã bị trừ mất 0,5 điểm. 
13. Phân bố thời gian làm bài hợp lý
Theo yêu cầu của đề thi đại học, cao đẳng, cũng như thi tốt nghiệp hiện nay, trong thời gian 180 phút, các em phải viết 3 bài văn nhỏ, đáp ứng được đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và tinh tế yêu cầu của 3 câu hỏi trong đề thi. 
Trong thực tế, nhiều em có kiến thức tốt, vẫn không đủ thời gian để làm bài. Vì vậy, việc sử dụng và phân bố thời gian làm bài thông minh và hợp lý là điều có ý nghĩa rất quan trọng.
Các em nên tận dụng thời gian làm bài ngay khi nhận được đề thi mà không nên chờ đến khi cỏ trống tính thời gian làm bài, đồng thời phải tận dụng thời gian làm bài đến tận phút cuối cùng. Chỉ cần bỏ phí khoảng 10 phút, có thể các em đã nhường lại cơ hội vào đại học cho người khác. 
Các em cần hết sức lưu ý đến điểm số của từng câu (hoặc từng phần) được ghi trong đề thi, để từ đó, chủ động phân chia thời lượng, giấy mực... cho từng câu một cách hợp lí. 
Tránh tình trạng đầu tư quá nhiều thời gian và sức lực cho câu có điểm tối đa thấp. Cần tận dụng từng giây phút, tránh tình trạng không đủ thời gian để làm bài. 
Khi làm bài, câu I, thường 2 điểm, các em chỉ được làm trong khoảng thời gian tối đa 36 phút, câu II, thường 5 điểm, làm trong khoảng thời gian 90 phút, câu IIIa và IIIb, thường 3 điểm làm trong khoảng thời gian 54 phút. 
Nhưng tôi khuyên các em chỉ nên làm câu I trong khoảng thời gian 20 phút, vì câu này thường đơn giản, chỉ cần nắm chắc kiến thức cơ bản là có thể giải quyết đầy đủ và đạt điểm tối đa. Số thời gian còn lại, nên dành thêm cho câu II, vì trong thực tế, câu này thường khá khó và dài, phần lớn thí sinh không thể làm trọn vẹn trong 90 phút.
Phần mở và kết bài cho từng câu cũng cần được viết trong khoảng thời gian thật ngắn. Trong thực tế, nhiều thí sinh ngồi cắn bút đến 15 - 20 phút, thậm chí nhiều hơn, vẫn chưa viết xong mở bài, vậy thì đối với ngay cả câu 5 điểm (thời gian cho phép làm bài là 90 phút), cũng làm sao đủ thời gian để viết mở bài và kết luận? 
Các em nên luyện tập để có thể mở bài, kết bài cho từng câu trong khoảng thời gian từ 5 - 7 phút. Như thế mới có đủ thời gian để triển khai ý sâu sắc và đầy đủ cho phần thân bài. 
Cũng không nên viết nháp bài văn rồi chép lại, vì như thế sẽ không bao giờ đủ thời gian. Các em chỉ nên vạch ra các ý chính thông qua các gạch đầu dòng, hoặc theo hình nhánh cây, và cân nhắc trình tự sắp xếp các ý cho chặt chẽ, rồi lựa chọn cách diễn đạt và viết ngay thành lời văn vào giấy thi. 
Trong trường hợp có chỗ nào sai, nên dùng thước kẻ gạch đè lên để bỏ đi, rồi viết tiếp, mà không nên thay giấy thi (nếu không phải là những dòng đầu tiên của bài làm, hoặc của tờ giấy thi), vì việc điền lại các thông tin cá nhân trên phách và chép lại phần bài đã làm sẽ mất rất nhiều thời gian. 
Nên dành khoảng 4 - 5 phút cuối cùng của 180 phút làm bài thi, để đọc lại bài làm, rà soát các lỗi sai, nhất là lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp, sau đó hãy nộp bài.   
14. Rèn luyện để tăng tốc độ viết
Như các em đã thấy, dù cấu trúc như nhau, nhưng mức độ của đề thi đại học khó hơn nhiều so với đề thi tốt nghiệp. Về cơ bản, bài văn thi đại học có thể làm tương tự như bài thi tốt nghiệp, nhưng mức độ và chất lượng phải cao hơn, kiến thức phải sâu hơn, tư duy chặt chẽ hơn và diễn đạt cũng phải tinh tế, uyển chuyển hơn. 
Mọi yêu cầu của đề đều cần giải quyết trong vòng 180 phút, nên nhiều thí sinh không đủ thời gian để làm bài. Mặt khác, đề thi cũng ngày một dài hơn. 
Trước đây, câu 3 điểm (làm trong 54 phút), thường chỉ yêu cầu bình giảng 4 dòng thơ, nhưng đề thi khối C, năm 2007, yêu cầu bình giảng tới 10 dòng. Câu 3 điểm trong đề khối D, năm 2007, trước đây thường được cho với yêu cầu 5 điểm (làm trong 90 phút). Vì vậy việc tăng tốc độ viết để có đủ thời gian làm bài là điều rất cần thiết. 
Những thí sinh viết nhanh, viết đẹp rõ ràng có lợi thế hơn. Các em nên luyện tập ngón tay và khuỷu tay, để tránh bị mỏi tay khi viết bài, đồng thời luyện viết thường xuyên để viết nhanh, chữ viết rõ ràng, sạch đẹp hơn. 
Các em có thể lấy 1 đề văn thi đại học bất kì, trung thực và nghiêm túc làm bài trong 180 phút, không dùng bất cứ tài liệu  nào, tự kiểm tra xem khả năng làm bài và tốc độ viết của mình đã hợp lí chưa, để có phương án điều chỉnh. 
Cần lưu ý rằng, điều kiện đầu tiên để tốc độ viết văn nhanh hơn là các em phải luôn làm chủ kĩ năng và kiến thức, phải chuẩn bị sẵn sàng và đầy đủ kiến thức trong đầu. 
Trình bày những điều trên đây, chúng tôi hi vọng ít nhiều giúp ích cho các em trong quá trình ôn tập và làm bài. Hãy luôn nhớ rằng trên con đường thành công không có bước chân của kẻ lười biếng và “tất cả những gì tốt đẹp nhất, chỉ có thể có được khi chúng ta chịu trả giá bằng một nỗi đau khổ vĩ đại” (Côlin Măc Calâu). 
Nếu kiên nhẫn rèn luyện, nỗ lực học tập một cách thông minh và có phương pháp, chỉ cần một thời gian ngắn, chắc chắn các em sẽ có bài văn đạt điểm cao trong kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng

Tài liệu đính kèm:

  • docbi_quyet_on_thi_mon_van_h.doc