Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm trong dạy - Học các loại thể văn học nước ngoài ở THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm trong dạy - Học các loại thể văn học nước ngoài ở THCS

PHẦN I

ĐẶT VẤN ĐỀ

Văn chương nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở gồm những sáng tác dân gian, văn thơ cổ điển, văn thơ hiện đại được chọn và bố trí song song với chương trình văn học dân tộc. Cùng với văn học dân tộc, văn chương nước ngoài đã góp phần tạo điều kiện cho học sinh mở rộng tầm nhìn và khả năng cảm thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, hiểu biết thêm về cuộc sống và tài năng sáng tạo của các dân tộc từ đó hiểu rõ hơn đất nước, dân tộc và văn hoá dân tộc đồng thời phát triển tinh thần quốc tế và ý thức về cộng đồng văn hoá nhân loại.

 Đó là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các dân tộc. Nói rộng ra đó là tinh hoa văn hoá nhân loại đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, của không gian đến với chúng ta hôm nay. Ta bắt gặp ở đây những tác phẩm đã thành mẫu mực của văn học thế giới từ các chuyện cổ tích như “Cây bút thần” (Trung Quốc), “Ông lão đánh cá và con cá vàng” (Nga) cho đến các tác phẩm văn chương nổi tiếng của các nhà văn lớn của các dân tộc cũng là của thế giới như “Đôn- ki-hô-tê” của (Xéc-van-tét), “Cô bé bán diêm” của (An-đéc-xen), “Chiếc lá cuối cùng” của (OHen-ry), thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ; Truyện của Lỗ Tấn, A. Tôn-xtôi, Mô-pa-xăng, Giắc Lơn-đơn, Ai-ma-tốp, các trích đoạn kịch cổ điển Pháp, Anh của Mô-li-e, Sếc-xpia.

 Nhìn chung đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân tộc có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và ý thức vươn tới điều thiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Đó còn là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt trình độ mẫu mực được viết ra bởi tài nghệ bậc thầy của các nhà văn xuất sắc.

 Tuy nhiên trong thực tế dạy và học tác phẩm văn chương nước ngoài ở trung học cơ sở hiện nay gặp rất nhiều khó khăn mà trước hết khó khăn lớn nhất là khoảng cách khá lớn về không gian và thời gian, về lịch sử và tâm lý. Đứng trước nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài, nhiều giáo viên nhất là học sinh cảm thấy vô cùng xa lạ. Nếu không được giải thích, hướng dẫn thì trong tiếp cận khó mà hiểu, cảm nổi.

 Ví dụ: “Đánh nhau với cối xay gió” ( Trích “Đôn-ki-hô-tê” của Xéc- van-tét) dẫu là tác phẩm rất hay nhưng được viết ra cách đây hàng bốn trăm năm, từ thời trung cổ về tầng lớp hiệp sĩ giang hồ đã lỗi thời, về phong cách sinh hoạt của quí tộc thời trung cổ Châu Âu với những tập tục lề thói cách cảm, cách nghĩ hoàn toàn xa lạ với chúng ta.

 

doc 17 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 676Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm trong dạy - Học các loại thể văn học nước ngoài ở THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn chương nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở gồm những sáng tác dân gian, văn thơ cổ điển, văn thơ hiện đại được chọn và bố trí song song với chương trình văn học dân tộc. Cùng với văn học dân tộc, văn chương nước ngoài đã góp phần tạo điều kiện cho học sinh mở rộng tầm nhìn và khả năng cảm thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, hiểu biết thêm về cuộc sống và tài năng sáng tạo của các dân tộc từ đó hiểu rõ hơn đất nước, dân tộc và văn hoá dân tộc đồng thời phát triển tinh thần quốc tế và ý thức về cộng đồng văn hoá nhân loại.
	Đó là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các dân tộc. Nói rộng ra đó là tinh hoa văn hoá nhân loại đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, của không gian đến với chúng ta hôm nay. Ta bắt gặp ở đây những tác phẩm đã thành mẫu mực của văn học thế giới từ các chuyện cổ tích như “Cây bút thần” (Trung Quốc), “Ông lão đánh cá và con cá vàng” (Nga) cho đến các tác phẩm văn chương nổi tiếng của các nhà văn lớn của các dân tộc cũng là của thế giới như “Đôn- ki-hô-tê” của (Xéc-van-tét), “Cô bé bán diêm” của (An-đéc-xen), “Chiếc lá cuối cùng” của (OHen-ry), thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ; Truyện của Lỗ Tấn, A. Tôn-xtôi, Mô-pa-xăng, Giắc Lơn-đơn, Ai-ma-tốp, các trích đoạn kịch cổ điển Pháp, Anh của Mô-li-e, Sếc-xpia.
	Nhìn chung đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân tộc có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và ý thức vươn tới điều thiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Đó còn là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt trình độ mẫu mực được viết ra bởi tài nghệ bậc thầy của các nhà văn xuất sắc.
	Tuy nhiên trong thực tế dạy và học tác phẩm văn chương nước ngoài ở trung học cơ sở hiện nay gặp rất nhiều khó khăn mà trước hết khó khăn lớn nhất là khoảng cách khá lớn về không gian và thời gian, về lịch sử và tâm lý. Đứng trước nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài, nhiều giáo viên nhất là học sinh cảm thấy vô cùng xa lạ. Nếu không được giải thích, hướng dẫn thì trong tiếp cận khó mà hiểu, cảm nổi.
 Ví dụ: “Đánh nhau với cối xay gió” ( Trích “Đôn-ki-hô-tê” của Xéc- van-tét) dẫu là tác phẩm rất hay nhưng được viết ra cách đây hàng bốn trăm năm, từ thời trung cổ về tầng lớp hiệp sĩ giang hồ đã lỗi thời, về phong cách sinh hoạt của quí tộc thời trung cổ Châu Âu với những tập tục lề thói cách cảm, cách nghĩ hoàn toàn xa lạ với chúng ta.
	Khó khăn lớn thứ hai là chúng ta dạy và học văn chương nước ngoài trong điều kiện tài liệu, sách vở phục vụ cho tham khảo còn khan hiếm. Nhiều tác phẩm anh chị em giáo viên mới được nghe lần đầu tiên. Nhiều tác phẩm anh chị em nghe tên nhưng chưa được một lần được nhìn tận mắt. Hầu hết tác phẩm được đưa vào chương trình anh chị em chỉ biết được qua sách giáo khoa, qua tóm tắt, qua trích đoạn. khó khăn này không phải một sớm một chiều mà khắc phục được.
	Trước những thực trạng khó khăn trong việc tiếp cận, việc dạy và học các tác phẩm văn chương nước ngoài như vậy, với tấm lòng yêu nghề, yêu bộ môn và trong thực tế giảng dạy nhiều năm tôi đã cùng nhiều đồng nghiệp tìm ra những hướng dạy, bàn cách khắc phục những khó khăn trên để góp phần nâng cao hiệu quả của các giờ học văn. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi xin mạnh dạn góp thêm “ Một vài kinh nghiệm trong dạy-học các loại thể văn học nước ngoài ở THCS”.
PHẦN II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI NGHIÊN CỨU:
	Trước khi nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này tôi đã cùng với các đồng nghiệp trong nhóm Ngữ văn của nhà trường tiến hành khảo sát các tiết dạy và học phần văn học nước ngoài trong chương trình đối với các khối lớp 6, 7, 8,9 trong các năm học: 
1. Hình thức và nội dung khảo sát:
 Tập trung vào mảng kiến thức thuộc phần văn học nước ngoài đã dạy thực tế trong chương trình ở các khối 6, 7, 8, 9 ..
 + Thông qua các buổi sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, qua dự giờ đồng nghiệp, thăm lớp rút kinh nghiệm và đánh giá chất lượng, kết quả của các tiết dạy và học từ đó rút ra những phương pháp và biện pháp chung trong dạy và học các loại thể văn học nước ngoài.
 + Sử dụng phiếu học tập với những câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra việc nắm kiến thức bài học, sự hiểu biết của học sinh về các tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài.
 + Tiến hành cho học sinh làm các bài kiểm tra viết để đánh giá tổng quát khả năng cảm thụ, phân tích những giá trị nghệ thuật và nội dung của các tác phẩm văn học nước ngoài.
2, Kết quả khảo sát:
Khối
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
(%)
SL
(%)
SL
(%)
SL
(%)
Qua thực tế và kết quả khảo sát tôi nhận thấy rằng:
 + Sự hiểu biết của học sinh về các tác giả cũng như các tác phẩm văn học nước ngoài được học trong chương trình còn rất hạn chế.
 + Khả năng tiếp thu và cảm nhận những tác phẩm văn chương nước ngoài chưa cao.
 + Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội dung các tác phẩm văn chương nước ngoài còn hời hợt và chưa sâu sắc. Vì vậy số bài đạt điểm khá chưa cao.
 + Kỹ năng phân tích các yếu tố ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật, chi tiết, hình ảnh, nhân vật  trong các tác phẩm văn học nước ngoài của học sinh còn lúng túng.
 + Ở một vài giáo viên sự hiểu biết về phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm thẩm mĩ của dân tộc đó sản sinh ra tác phẩm chưa thật sâu sắc, chưa có điều kiện đọc trọn vẹn các tác phẩm có đoạn trích được dạy.
II, PHƯƠNG PHÁP VÀ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH.
	Nhìn một cách tổng thể toàn bộ phần văn học nước ngoài trong chương trình ngữ văn THCS, ta có thể phân loại các tác phẩm văn học nước ngoài theo đặc trưng loại thể thành những mảng sau:
1, Truyện cổ dân gian:
	Bao gồm 2 tác phẩm chính đó là “Cây bút thần” sáng tác dân gian của Trung Quốc; “Ông lão đánh cá và con cá vàng” của A-lếch - xan-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-skin, đại thi hào Nga kể lại bằng 205 câu thơ trên cơ sở của truyện dân gian Nga, Đức.
2, Thơ Đường:
	Một số bài thơ Đường có nội dung trữ tình xã hội, về tình cảm quê hương, về thiên nhiên của các tác giả: Lí Bạch, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ
3, Truyện ngắn:
	Bao gồm một số đoạn trích của các tác phẩm: “Đánh nhau với cối xay gió” của Xéc-van-tét, “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen, “Chiếc lá cuối cùng” của Ơ. Hen-ry, “Hai cây phong” của Ai-Ma-Tốp, “Cố hương” của Lỗ Tấn, “Con chó bấc” của Giắc-lơn-đơn, “Những đứa trẻ” của Gor-ki, “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” của Đi-phô, “Bố của Xi-mông” của Mô-pa-xăng
4, Kí:
	“Lòng yêu nước” của Ê-ren-bua
5, Kịch:
	Trích đoạn kịch cổ điển Pháp “ Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” của Mô-li-e.
6, Thơ trữ tình hiện đại:
	Bao gồm một số bài thơ trữ tình của Nga, Ấn Độ.
 Qua việc phân loại như vậy để có cái nhìn tổng quát toàn bộ chương trình phần văn học nước ngoài, từ đó đề ra những phương pháp, biện pháp dạy cụ thể cho từng loại thể một cách hợp lý cũng như việc vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy và học một cách phù hợp hơn.
III, NHỮNG CÔNG VIỆC THỰC TẾ ĐÃ LÀM VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
1. Những nguyên tắc chung:
1a. Muốn dạy tốt các tác phẩm văn chương nước ngoài phải trực tiếp tiếp xúc với tác phẩm:
	Có thể coi đây là một yêu cầu nghiêm ngặt đối với giáo viên và học sinh khi dạy học tác phẩm văn chương. Nhưng với các tác phẩm văn chương nước ngoài thì đây là một yêu cầu khá cao song phải tìm mọi cách mà thực hiện cho được. Có thể tổ chức cho tổ, nhóm chuyên môn chia nhau tìm đọc, trao đổi với nhau. Cũng có thể tổ chức báo cáo trong sinh hoạt chuyên môn hoặc có thể tổ chức ngoại khoá cho học sinh. Nếu không đọc được tác phẩm thì cũng phải được nghe, được kể, được thảo luận về tác phẩm mà mình phải dạy và học.
1b. Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác phẩm:
	Sự hiểu biết về tác giả, về thời đại, về đất nước đó sản sinh ra tác phẩm, những đặc sắc về thiên nhiên, về tập tục xã hội nhất là về tâm lý dân tộc sẽ giúp ta hiểu và cảm tác phẩm văn chương nước ngoài rất nhiều. Những điều đó không dễ gì có đươc nếu chúng ta không tìm tòi học hỏi.
	Chúng ta sẽ không cảm và hiểu tốt đoạn trích “ Đánh nhau với cối xay gió”trong “Đôn-ki hô tê” của Xéc-van-tét nếu ta không hiểu biết gì về đất nước Tây Ban Nha thời trung cổ, sự tan giã của ý thức hệ phong kiến và sự hình thành của ý thức hệ tư sản.
 	Vì vậy việc tìm đọc các tài liệu có liên quan trên các tạp chí, các sách báo rất cần thiết đối với giáo viên và học sinh nhất là giáo viên trong việc dạy học tác phẩm văn chương, nhất là tác phẩm văn chương nước ngoài.
1c. Muốn dạy tốt tác phẩm cần hiểu đúng tác phẩm:
	Muốn dạy tốt văn bản thì phải hiểu đúng nó, tìm hiểu nó đúng trong vị trí tác phẩm, hiểu được toàn bộ tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả từ đó mới lựa chọn được vấn đề và cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội cho phù hợp với trình độ học sinh. Đây là một yêu cầu cao song với tác phẩm văn chương nước ngoài thì việc hiểu đúng tác phẩm là một yêu cầu quan trọng. “Con chó Bấc”(trong sách văn 7 cũ, và là tác phẩm được dạy trong ngữ văn 9 hiện nay) là một văn bản hay nhưng rất xa lạ đối với giáo viên và học sinh THCS.
	Hầu như anh chị em chỉ mới biết được nhà văn Giắc-lơn-đơn và “Tiếng gọi nơi hoang dã” qua một đoạn trích không trọn vẹn trong sách giáo khoa. Cũng vì vậy mà chưa hiểu được tinh thần của văn bản cũng như chưa hiểu sâu sắc tác giả và nội dung toàn bộ tác phẩm. Thực ra, đây chỉ là một đoạn trích trong tác phẩm “ Tiếng gọi nơi hoang dã” của Giắc-lơn-đơn một nhà văn Mỹ nổi tiếng thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. “Tiếng gọi nơi hoang dã” là một kiệt tác của nhà văn nhằm chứng minh: mâu thuẫn giữa sự tạn bạo dã man của cái gọi là văn minh và sự tự do của loài vật sống hoang dã trong thiên nhiên. Kiệt tác này được nhà văn viết từ 1903.
 Truyện kể về số phận của con chó Bấc bị bắt cóc mang đi khỏi trang trại của một người chủ giàu có ở Ca-li-phoóc-ni-a, và bị ném vào vùng Bắc cực hoang dã trong cuộc săn vàng của con người. Thiên nhiên nguyên thuỷ, sự nghiệt ngã tàn bạo của môi trường đã đánh thức và làm phát triển mạnh mẽ trong đáy sâu thẳm của nó những bản năng thú dữ của tổ tiên nó. Nó đã sống với đủ hạng người phần lớn họ là những kẻ độc ác, tàn bạo đối với thú vật. Chỉ có một người là chiếm được thiện cảm của nó bằng lòng nhân đạo và tình thương yêu rộng lớn. Đó là Giôn Thoóc Tơn.
 Truyện toát lên một nhân sinh quan rõ rệt: Lòng thương yêu loài vật, ông cho rằng chỉ có trên cơ sở một tình thương yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến thắng được những con vật, thậm chí là những con vật dữ tợn.
 Tình yêu thương thực sự và nồng nàn đến mức cuồng nhiệt dấy lên trong lòng con chó Bấc thì đến Giôn Thoóc Tơn mới khơi dậy được những điều đáng tìm hiểu là vì sao mà Bấc yêu thương Giôn Thoóc Tơn đến mức có những hành động đep đẽ thế? Bởi vì con người này đã cứu sống nó. Nhưng hơn thế nữa, con người này là một ông chủ lý tưởng. Anh chăm sóc chó của mình như thể chính nó là con cái của anh vậy.
 Có đọc toàn  ... m lòng. Tấm lòng đã thăng hoa thành nghệ thuật. Và nghệ thuật đã mang thiên chức cứu người. Với O.Henry nghệ thuật phải phụng sự cái đẹp, phải phụng sự cuộc sống. Mà cuộc sống, tồn tại trong ý nghĩ cao đẹp nhất, là phải biết hi sinh. Có thể nói, nhân loại tồn tại trong ý thức cao đẹp nhất, là phải biết hi sinh.Và có thể nói, nhân loại tồn tại và phát triển là nhờ sự hi sinh kế tục của các thế hệ tiếp nối. Xét ở góc độ này, O.Henry đặt vấn đề về ý nghĩa tồn tại và khả năng duy trì sự sống của con người.
	Cuộc sống là đáng quí, nhưng theo Bơ-men, nếu cần, lão sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình vì những điều cao quí hơn. đến đây ta thấy rõ hơn dụng ý nghệ thuật tạo độ căng của O.Henry: sử dụng thủ pháp tăng cấp nhưng khi truyện phát triển lên đến đỉnh điểm thì khéo léo đan cài tư tưởng, chủ đề khác vào, đây mới là chủ đề chính của tác phẩm. Vậy ra, cả hai cô gái, bác sĩ, bức tường gạch, dây trường xuân kia và cả cách tự sự duyên dáng từ đầu tác phẩm đến đây tất cả đều là nền để ông lão Bơ-men xuất hiện. Với kĩ thuật tự sự này, tác giả tạo dựng được độ hẫng thẩm mĩ trong tâm lí tiếp nhận. Đây là nét độc đáo của “Chiếc là cuối cùng” bởi độ hẫng thẩm mĩ thì dễ được thực hiện ở thi ca chứ văn xuôi thì quả là rất khó. Vậy nên ta có thể ví “Chiếc lá cuối cùng” như một bài thơ- tranh đặc biệt.
	Xét ở góc độ khác, “Chiếc lá cuối cùng” được xem như là một truyện ngắn có kết cấu mẫu mực vào hạng bậc nhất. Cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, trần thuật, đối thoại Đều có thể được xem như là một trong những khuôn mẫu của thể loại này ở thế kỉ XIX.
	Chẳng hạn như cốt truyện của tác phẩm khá phức tạp. Ngoài cốt truyện bề nổi, ta còn gặp cả cốt truyện ngầm nữa.
Ở tuyến thứ nhất có thể tóm lược theo năm bước sau: Trình bày: tại một “khu họa sĩ” nọ, có một cô gái bị ốm tên là Giôn-xy đang nằm đợi chết. Thắt nút: tâm trạng chờ chết liên quan đến những chiếc là trường xuân đã rụng. Phát triển: lá cứ rụng, sức khoẻ Giôn-xy dần tàn. Đỉnh điểm: chỉ còn mỗi một chiếc lá, nếu lá ấy rơi thì sự sống của Giôn-xy cũng rơi theo. Kết thúc: lá không rơi, Giôn-xy không chết. 
Ngoài cốt truyện ở bề nổi trên ta còn có một tuyến truyện song hành, chìm ẩn nữa: có một hoạ sĩ già nuôi tham vọng vẽ bức kiệt tác. Có một hoạ sĩ trẻ muốn chết vì những chiếc là rơi. Ông lão muốn cứu cô gái bằng dự định vẽ chiếc lá (điều này không được phát biểu trực tiếp trong tác phẩm) và ông lão quyết định vẽ chiếc lá vào đêm mùa đông giá rét thay thế chiếc lá trường xuân cuối cùng đã rụng. Truyện kết thúc khi cô bé hồi phục bởi chiếc lá (được vẽ ) vẫn còn nhưng hoạ sĩ già thì vẫn qua đời. 
Hiện tượng đan cài nhuần nhuyễn các tuyến cốt truyện trên đã cho thấy O.Henry xứng đáng là một cây bút truyện ngắn lỗi lạc bậc thầy.
Cho nên với bài dạy này, giáo viên cần gợi dẫn học sinh hướng vào sự tìm hiểu: Cảnh ngộ và tâm trạng của Giôn- xi, và sức mạnh của nghệ thuật chân chính cũng như nghệ thuật xây dựng cốt truyện và các tình huống truyệnvới hệ thống câu hỏi sau:
	 Qua đoạn trích em hình dung được những gì về cảnh ngộ của Giôn- xy và tấm lòng của mọi người đối với cô?
	 Vì sao cụ Bơ-men và Xiu sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ nhìn cây thường xuân?
	 Sau hai lần ra lệnh kéo màn để nhìn ra cửa sổ, tâm trạng của Giôn xy biến đổi như thế nào? Điều gì là nguyên nhân gây lên sự biến đổi đó?
	 Giôn xy nói “có một cái gì đó đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội?
	Em thử hình dung diễn biến tình cảm trong tâm trạng của Giôn xy khi thấy chiếc lá “dũng cảm”, “đơn độc” bám vào cành?
	 Theo em, Giôn xy được cứu sống chủ yếu nhờ vào những điều gì?
	 Tại sao có thể nói chiếc lá của cụ Bơ-men vẽ mới là yếu tố quan trọng cứu sống Giôn xy?
	 Để cho Gôn xy thoát khỏi cái chết nhờ chiếc lá, ngoài việc ca ngợi những tình cảm tốt đẹp của các nghệ sĩ, tác giả còn muốn ca ngợi điều gì khác?
	 Xiu coi chiếc lá của cụ Bơ-men là một kiệt tác. Em có đồng ý như vậy không? hãy giải thích theo cách hiểu của em? 
 Những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, xây dựng các tình tiết và tình huống truyện của O.Hen ry trong “Chiếc lá cuối cùng”?
2d. Tìm hiểu những dấu hiệu thi pháp của tác phẩm theo đặc trưng loại thể.
	Mỗi tác phẩm văn học xuất hiện bên cạnh động lực lớn, cảm hứng chủ quan của nhà văn còn bị chi phối trực tiếp bởi trào lưu văn hoá trong khu vực ảnh hưởng cụ thể đến dân tộc. Vì vậy, chúng ta đặt yêu cầu này ra là để tìm kiếm những điều kiện lý tưởng khi dạy và học cũng như nghiên cứu tác phẩm.
	Ví dụ: Với thơ Đường thì dù bút pháp hiện thực như Đỗ Phủ, lãng mạn như Lý Bạch đều bị chi phối bởi triết học Đạo giáo và Phật giáo không đơn thuần chỉ là Nho giáo. Màu sắc của Đạo giáo trong thơ Lý Bạch rất rõ, ở Vương Duy chất phật rõ hơn còn Đỗ Phủ thì chất nhân văn từ hiện theo đời sống là chủ đề chính.
	Ta thấy thơ đường có màu sắc rất riêng, có lẽ khó gặp ở một trào lưu văn học Phương tây nào có một loại thơ như thế. Cái tôi với tính chất “phi cá thể”, ước lệ trong thơ đường khá phổ biến. Tuy vậy, ta vẫn không loại trừ những ngoại lệ. Dù như vậy ta cũng vẫn phải gọi ra mấy nét có tính chất thi pháp của Đường thi:
 - Đề tài thường trang trọng, thi ý thường nhiều tầng nghĩa gợi một màu sắc trí tuệ.
 - Ngôn ngữ Đường thi thường mang tính khái quát cao chứ rất ít đi vào miêu tả chi tiết.
 - Trong quá trình thể hiện, thơ Đường thường thể hiện những nguyên tắc rất chặt chẽ tạo sự hài hoà kì thú. Mặt khác, nó lại sử dụng vần (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh), trên cơ sở những tiểu đối: Đối thanh, đối ý.
 - Thể cách luật trong thơ Đường là qui tắc kết hợp luật bằng trắc để tạo ra một sự hài âm, “niêm” là sự kết dính hàng dọc tạo được sư êm ái, chất trí tuệ và “nỗi buồn thiên cổ” trong thơ Đường.
Vì vậy, khi dạy và học thơ Đường nếu chúng ta đặt được tác phẩm vào những nét tiêu biểu của thi pháp thơ Đường thì rất có thuận lợi khi khai thác giúp học sinh tiếp nhận, cảm và hiểu nó một cách sâu sắc hơn.
 Một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của dạy và học phát triển hiện nay là đi “từ khái quát đến cụ thể”. Trước đến nay dạy và học thơ Đường chúng ta thường chủ yếu khám phá cấu trúc: đề, thực, luận, kết (đối với thể thất ngôn bát cú) hoặc: khai, thừa, chuyển, hợp (đối với thể thất ngôn tứ tuyệt). Nhưng trên thực tế của khối lượng đồ sộ những bài thơ đường, nó thể hiện cả một trào lưu thơ ca độc đáo: ý tứ, đề tài của trào lưu này thể hiện cả một ý chí sáng tạo. Thi ý thường nhiều tầng nghĩa. Luật bằng trắc: 1-8, 2-3, 4-5, 6-7. Sự đối ngẫu thường diễn ra ở các câu 3-4, 5-6 ngoài đối thanh “bằng”, “trắc”, còn có tới 24 loại đối thuận, nghịch, tương thành, tương phản mà người giáo viên dạy văn cần quan tâm khai thác trong dạy và học, giúp học sinh hiểu đến cạn kiệt những tầng ý nghĩa trong thi tứ và thi ý của từng câu thơ Đường theo đặc trưng thi pháp, thể loại.
	Chẳng hạn khi khai thác, phân tích hai câu thơ cuối của bài “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch học sinh có thể hiểu và cảm đươc sự tuyệt hay của hai câu thơ. Hay về lời và ý: về lời là ngôn ngữ trong sáng, giản đơn, dễ hiểu, từ ngữ đối nghịch trong (từ cử-đê; vọng-tư; minh nguyệt-cố hương). Về ý diễn tả được tư thế và tâm trạng của tác giả. Tư thế của Lý Bạch ở đây hoàn toàn trái ngược (khi ngẩng đầu nhìn trăng thì phấn khởi vui vẻ, thoải mái - khi cúi đầu là buồn rầu tưởng nhớ đến quê hương).
3, Kết quả đạt đươc:
	Sau khi vận dụng những kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy, tôi đã mạnh dạn thực nghiệm đối với khối . Để biết được kết quả của việc vận dụng “kinh nghiệm trong dạy-học các thể loại văn học nước ngoài”. Tôi đã tiến hành khảo sát ở các tiết văn học của khối (trong các tuần 9, 10, 11), Cách khảo sát được tiến hành như ở phần: Điều tra thưc trạng trước khi nghiên cứu.
	Kết quả khảo sát như sau:
Khối
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
(%)
SL
(%)
SL
(%)
SL
(%)
	Với kết quả khảo sát như trên, qua việc đối chiếu, so sánh kết quả ở hai khối lớp và .Tôi nhận thấy rằng những biện pháp và hình thức dạy-học các tác phẩm văn học nước ngoài đã góp phần phục vụ hữu ích và góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của các giờ dạy-học tác phẩm văn học nước ngoài.
	Phần lớn học sinh nắm chắc và nắm sâu kiến thức bài hoc, hiểu và cảm thụ sâu sắc những giá trị đặc sắc về nghệ thuật, nội dung của các tác phẩm văn, thơ nước ngoài.
	Có kỹ năng tìm hiểu, khám phá, phân tích những tác phẩm văn chương nước ngoài theo đặc trưng, thể loại.
IV, BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
	Qua thời gian nghiên cứu cùng các đồng nghiệp của mình áp dụng đề tài này vào giảng dạy phần văn học nước ngoài trong chương trình ngữ văn 7 và 8, tôi thấy đây là những kinh nghiệm tốt để giúp người giáo viên dạy văn khi đứng trước những tác phẩm văn học nước ngoài có thể tự tin và chủ động trong khai thác, phân tích và tiếp cận các tác phẩm văn chương đó để ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả của các tiết dạy-học văn. Để có được kết quả cao khi thực hiện đề tài này, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
+ Với giáo viên:
 - Giáo viên phải thực sự là người yêu nghề, yêu văn chương, có kiến thức sâu sắc về lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán, quan niệm thẩm mỹ của các dân tộc đã sản sinh ra những tác phẩm mà mình sẽ trực tiếp giảng dạy.
 - Có ý thức tìm đọc và hiểu đúng, hiểu trọn vẹn các tác phẩm văn chương nước ngoài phải dạy.
 - Nắm chắc hệ thống phương pháp dạy-học tác phẩm văn chương theo loại thể, đặc biệt là các tác phẩm văn chương nước ngoài.
+ Với học sinh:
 - Các em phải là những bạn đọc thưc sự say mê, yêu thích văn học đặc biệt là các tác phẩm văn chương nước ngoài.
 - Mỗi học sinh luôn có ý thức đọc trước tác phẩm, tự tìm hiểu hệ thống câu hỏi qua phần đọc hiểu văn bản.
 - Mỗi học sinh luôn có ý thức tự rèn luyện các kỹ năng phân tích, tìm hiểu các yếu tố ngôn ngữ, nhân vật trong các tác phẩm văn chương nước ngoài.
Vận dụng tốt những kinh nghiệm trên, theo tôi kết quả các giờ học văn phần văn học nước ngoài mới có kết quả cao. Đồng thời khắc phục được tình trạng lười học, chán học và ngại học bộ môn do quan niệm phần văn học này là khó của học sinh.
PHẦN III
KẾT LUẬN
	Tác phẩm văn chương nước ngoài là tiếng nói tâm tình, là cuộc đời của những con người sống rất xa ta về không gian và thời gian nhưng lai có cùng một nhịp đập trái tim với chúng ta. Ta phải vận dụng cả những tình cảm và hiểu biết nhiều khi tưởng như không dính dáng đến tác phẩm một cách linh hoạt, sáng tạo để đưa các em đến những bến bờ xa lạ của thế giới văn học nhân loại, để nâng cao tầm nhìn, tầm suy nghĩ của các em. Có như thế, việc dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài mới có hiệu quả và góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
	Để dạy – học tốt phần văn học này, giáo viên cần phải có một vốn hiểu biết rộng rãi, vốn sống, vốn ngoại ngữ, sự am hiểu các nền văn minh, văn hoá thế giới và đặc biệt là tấm lòng say mê văn chương để có thể khám phá những tinh hoa văn hoá thế giới.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn NV 9.doc