PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Lê Anh Trà)
I - GỢI Ý
1. Xuất xứ:
Phong cách Hồ Chí Minh là một phần bài viết "Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị" của tác giả Lê Anh Trà, trích trong cuốn sách "Hồ Chí Minh và văn hoá Việt Nam", Viện Văn hoá xuất bản, Hà Nội, 1990.
2. Tác phẩm:
Mặc dù am tường và ảnh hưởng nền văn hoá nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới nhưng phong cách của Hồ Chí Minh vô cùng giản dị, điều đó được thể hiện ngay trong đời sống sinh hoạt của Người: nơi ở chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé với những đồ đạc mộc mạc, trang phục đơn sơ, ăn uống đạm bạc.
3. Tóm tắt:
Viết về phong cách Hồ Chí Minh, tác giả đưa ra luận điểm then chốt: Phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và tính nhân loại, truyền thống và hiện đại, giữa vĩ đại và giản dị.
Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã vận dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, với những dẫn chứng xác thực, giàu sức thuyết phục về quá trình hoạt động cách mạng, khả năng sử dụng ngôn ngữ và sự giản dị, thanh cao trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của Bác.
TÁC PHẨM CHUYÊN THI VÀO LỚP 10 PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH (Lê Anh Trà) I - GỢI Ý 1. Xuất xứ: Phong cách Hồ Chí Minh là một phần bài viết "Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị" của tác giả Lê Anh Trà, trích trong cuốn sách "Hồ Chí Minh và văn hoá Việt Nam", Viện Văn hoá xuất bản, Hà Nội, 1990. 2. Tác phẩm: Mặc dù am tường và ảnh hưởng nền văn hoá nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới nhưng phong cách của Hồ Chí Minh vô cùng giản dị, điều đó được thể hiện ngay trong đời sống sinh hoạt của Người: nơi ở chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé với những đồ đạc mộc mạc, trang phục đơn sơ, ăn uống đạm bạc. 3. Tóm tắt: Viết về phong cách Hồ Chí Minh, tác giả đưa ra luận điểm then chốt: Phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và tính nhân loại, truyền thống và hiện đại, giữa vĩ đại và giản dị. Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã vận dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, với những dẫn chứng xác thực, giàu sức thuyết phục về quá trình hoạt động cách mạng, khả năng sử dụng ngôn ngữ và sự giản dị, thanh cao trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của Bác. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Trong bài thơ Người đi tìm hình của nước, Chế Lan Viên viết: Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá... Đó là những câu thơ viết về Bác trong thời gian đầu của cuộc hành trình cứu nước gian khổ. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực vừa có ý khái quát sâu xa. Sự đối lập giữa một viên gạch hồng giản dị với cả một mùa đông băng giá đã phần nào nói lên sức mạnh và phong thái của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Sau này, khi đã trở về Tổ quốc, sống giữa đồng bào, đồng chí, dường như chúng ta vẫn gặp đã con người đã từng bôn ba khắp thế giới ấy: Nhớ Người những sáng tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi, rừng núi trông theo bóng Người. (Việt Bắc - Tố Hữu) Còn nhiều, rất nhiều những bài thơ, bài văn viết về cuộc đời hoạt động cũng như tình cảm của Bác đối với đất nước, nhân dân. Điểm chung nổi bật trong những tác phẩm ấy là phong thái ung dung, thanh thản của một người luôn biết cách làm chủ cuộc đời, là phong cách sống rất riêng: phong cách Hồ Chí Minh. Với một hệ thống lập luận chặt chẽ và những dẫn chứng vừa cụ thể vừa giàu sức thuyết phục, bài nghị luận xã hội của Lê Anh Trà đã chỉ ra sự thống nhất, kết hợp hài hoà của các yếu tố: dân tộc và nhân loại, truyền thống và hiện đại để làm nên sự thống nhất giữa sự vĩ đại và giản dị trong phong cách của Người. Cách gợi mở, dẫn dắt vấn đề của tác giả rất tự nhiên và hiệu quả. Để lí giải sự thống nhất giữa dân tộc và nhân loại, tác giả đã dẫn ra cuộc đời hoạt động đầy truân chuyên, tiếp xúc với văn hoá nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới... Kết luận được đưa ra sau đó hoàn toàn hợp lô gích: "Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hoá thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh... Người cũng chịu ảnh hưởng tất cả các nền văn hoá, đã tiếp thu cái đẹp và cái hay...". Đó là những căn cứ xác đáng để lí giải về tính nhân loại, tính hiện đại - một vế của sự hoà hợp, thống nhất trong phong cách Hồ Chí Minh. Ngay sau đó, tác giả lập luận: "Nhưng điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại..". Đây có thể coi là lập luận quan trọng nhất trong bài nhằm làm sáng tỏ luận điểm chính nói trên. Trong thực tế, các yếu tố "dân tộc" và "nhân loại", "truyền thống" và "hiện đại" luôn có xu hướng loại trừ nhau. Yếu tố này trội lên sẽ lấn át yếu tố kia. Sự kết hợp hài hoà của các yếu tố mang nhiều nét đối lập ấy trong một phong cách quả là điều kì diệu, chỉ có thể thực hiện được bởi một yếu tố vượt lên trên tất cả: đó là bản lĩnh, ý chí của một người chiến sĩ cộng sản, là tình cảm cách mạng được nung nấu bởi lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến và tinh thần sẵn sàng quên mình vì sự nghiệp chung. Hồ Chí Minh là người hội tụ đầy đủ những phẩm chất đó. Để củng cố cho lập luận của mình, tác giả đưa ra hàng loạt dẫn chứng. Những chi tiết hết sức cụ thể, phổ biến: đó là ngôi nhà sàn, là chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp đã từng đi vào thơ ca như một huyền thoại, là cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, là tình cảm thắm thiết đối với đồng bào, nhất là với các em thiếu nhi... cũng đã trở thành huyền thoại trong lòng nhân dân Việt Nam. Với những dẫn chứng sống động ấy, thủ pháp liệt kê được sử dụng ở đây không những không gây nhàm chán, đơn điệu mà còn có tác dụng thuyết phục hơn hẳn những lời thuyết lí dài dòng. Trong phần cuối bài, tác giả đã khiến cho bài viết thêm sâu sắc bằng cách kết nối giữa quá khứ với hiện tại. Từ nếp sống "giản dị và thanh đạm" của Bác, tác giả liên hệ đến Nguyễn Trãi, đến Nguyễn Bỉnh Khiêm - các vị "hiền triết" của non sông đất Việt: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao... Đây cũng là một yếu tố trong hệ thống lập luận của tác giả. Dẫu các yếu tố so sánh không thật tương đồng (Bác là một chiến sĩ cách mạng, là Chủ tịch nước trong khi Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm được nói đến trong thời gian ở ẩn, xa lánh cuộc sống sôi động bên ngoài) nhưng vẫn được vận dụng hợp lí nhờ cách lập luận có chiều sâu: "Nếp sống giản dị và thanh đạm của Bác Hồ, cũng như các vị danh nho xưa, hoàn toàn không phải là một cách tự thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, hơn đời, mà đây là lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác". Bài văn nghị luận này giúp chúng ta hiểu sâu thêm về phong cách của Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá của thế giới. ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HOÀ BÌNH (G. G. Mác-két) I - GỢI Ý 1. Tác giả: Nhà văn Cô-lôm-bi-a G.G. Mác-két (Gabriel Garcia Marquez) sinh năm 1928. Năm 1936, tốt nghiệp tú tài, ông vào học ngành Luật tại trường đại học Tổng hợp Bô-gô-ta và viết những truyện ngắn đầu tay. Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két là tác giả của nhiều tiểu thuyết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo nổi tiếng. Ông từng được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1982. G. G. Mác-két có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, nhưng nổi tiếng nhất là cuốn Trăm năm cô đơn (1967) - tiểu thuyết được tặng Giải Chianchianô của I-ta-li-a, được Pháp công nhận là cuốn sách nước ngoài hay nhất trong năm, được giới phê bình văn học ở Mĩ xếp là một trong 12 cuốn sách hay nhất trong những năm sáu mươi của thế kỉ XX. Toàn bộ sáng tác của G. G. Mác-két xoay quanh trục chủ đề chính: sự cô đơn - mặt trái của tình đoàn kết, lòng thương yêu giữa con người. 2. Tác phẩm: Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình trình bày những ý kiến của tác giả xung quanh hiểm hoạ hạt nhân, đồng thời kêu gọi thế giới nỗ lực hành động để ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ về một thảm hoạ có thể huỷ diệt toàn bộ sự sống trên trái đất. 3. Tóm tắt: Đây là một bài văn nghị luận xã hội. Tác giả nêu ra hai luận điểm cơ bản có liên quan mật thiết với nhau: - Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ cuộc sống trên trái đất. - Nhiệm vụ cấp bách của nhân loại là phải ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu tranh cho một thế giới hoà bình. Để làm sáng tỏ hai luận điểm trên, tác giả đã đưa ra một hệ thống lập luận chặt chẽ, đặc biệt là những dẫn chứng rất cụ thể, xác thực, giàu sức thuyết phục. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Chúng ta đang sống trong một thế giới mà trình độ khoa học kỹ thuật đang phát triển với một tốc độ đáng kinh ngạc: những thành tựu của ngày hôm nay, rất có thể chỉ ngày mai đã thành lạc hậu. Đã từng có những ý kiến bi quan cho rằng: trong khi của cải xã hội tăng theo cấp số cộng thì dân số trái đất lại tăng theo cấp số nhân, con người sẽ ngày càng đói khổ. Tuy nhiên, nhờ có sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, của cải xã hội ngày càng dồi dào hơn, số người đói nghèo ngày càng giảm đi... Đó là những yếu tố tích cực trong sự phát triển của khoa học mà phần lớn chúng ta đều nhận thấy. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển đó thì hầu như rất ít người có thể nhận thức được. Bài viết của nhà văn Gác-xi-a Mác-két đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh nhân loại trước nguy cơ đang hiện hữu của một cuộc chiến tranh hạt nhân thảm khốc có khả năng huỷ diệt toàn bộ sự sống trên hành tinh xanh mà phương tiện của cuộc chiến tranh ấy - mỉa mai thay - lại là hệ quả của sự phát triển khoa học như vũ bão kia. Vấn đề được khơi gợi hết sức ấn tượng: "Chúng ta đang ở đâu? Hôm nay ngày 8 - 8 - 1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã được bố trí khắp hành tinh. Nói nôm na ra, điều đó có nghĩa là mỗi người không trừ trẻ con, đang ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ: tất cả chỗ đó nổ tung lên sẽ làm biến hết thảy, không phải một lần mà là mười hai lần, mọi dấu vết của sự sống trên trái Đất". Sức tác động của đoạn văn này chủ yếu bởi những con số thống kê cụ thể: 50.000 đầu đạn hạt nhân; 4 tấn thuốc nổ; không phải một lần mà là mười hai lần... Thông điệp về nguy cơ huỷ diệt sự sống được truyền tải với một khả năng tác động mạnh mẽ vào tư duy bạn đọc. Không chỉ có thế, trong những câu văn tiếp theo, tác giả còn mở rộng phạm vi ra toàn hệ Mặt Trời, dẫn cả điển tích trong thần thoại Hi Lạp nhằm làm tăng sức thuyết phục. Trong phần tiếp theo, tác giả đưa ra hàng loạt so sánh nhằm thể hiện sự bất hợp lí trong xu hướng phát triển của khoa học hiện đại: tỉ lệ phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân loại quá thấp trong khi tỉ lệ phục vụ cho chiến tranh lại quá cao. Vẫn là những con số thống kê đầy sức nặng: - 100 tỉ đô la cho trẻ em nghèo khổ tương đương với 100 máy bay ném bom chiến lược B.1B hoặc dưới 7.000 tên lửa vượt đại châu; - Giá 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện chương trình phòng bệnh trong cùng 14 năm, bảo vệ cho hơn 1 tỉ người khỏi bệnh sốt rét; - Hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ cho toàn thế giới... Đó là những con số vượt lên trên cả những giá trị thống kê bởi nó còn có giá trị tố cáo bởi điều nghịch lí là trong khi các chương trình phục vụ chiến tranh đều đã hoặc chắc chắn trở thành hiện thực thì các chương trình cứu trợ trẻ em nghèo hay xoá nạn mù chữ chỉ là sự tính toán giả thiết và không biết đến bao giờ mới trở thành hiện thực. Trong khía cạnh này thì rõ ràng là khoa học đang phát triển ngược lại những giá trị nhân văn mà từ bao đời nay con người vẫn hằng xây dựng. Vẫn bằng phép suy luận lô gích và những con số thống kê nóng bỏng, tác giả đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm: sự phát triển vũ khí hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của con người mà còn đi ngược lại lí trí tự nhiên. Sự đối lập khủng khiếp giữa 380 triệu năm, 180 triệu năm, bốn kỷ địa chất (hàng chục triệu năm) với khoảng thời gian đủ để "bấm nút một cái" đã phơi bày toàn bộ tính chất phi lí cũng như sự nguy hiểm của chương trình vũ khí hạt nhân mà các nước giàu có đang theo đuổi. Bằng cách ấy, rất có thể con người đang phủ nhận, thậm chí xoá bỏ toàn bộ quá trình tiến hoá của tự nhiên và xã hội từ hàng trăm triệu năm qua. Đó không chỉ là sự phê phán mà còn là sự kết tội. Đó là toàn bộ luận điểm thứ nhất, chiếm đến hơn ba phần tư dung lượng của bài viết này. ở luận điểm thứ hai, thủ pháp tương phản đã được vận dụng triệt để. Ngay sau lời kết tội trên đây, tác giả kêu gọi: "Chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem lại tiếng nói của chúng ta tham gia vào bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng. Nhưng dù cho tai hoạ xảy ra thì sự có mặt của chúng ta ở đây cũng không phải là vô ích". Đó không hẳn là một lời kêu gọi thống thiết và mạnh mẽ, tuy nhiên không vì thế mà nó kém sức thuyết phục. Chính dư âm của luận điểm thứ nhất đã tạo nên hiệu quả cho luận điểm thứ hai này. Những lời kêu gọi của tác giả gần như những lời tâm sự nhưng thấm thía tận đáy lòng. Chưa hết, tác giả còn tưởng tượng ra tấn thảm kịch hạt nhân và đề nghị mở "một ngân hàng lưu trữ trí nhớ". Lời đề nghị tưởng như rất không thực ấy lại trở nên rất thực trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trong luận điểm thứ hai này, tác giả hầu như không sử dụng một dẫn chứng hay một con số thống kê nào. Nhưng cách dẫn dắt vấn đề, lời tâm sự tha thiết mang âm điệu xót xa của tác giả đã tác động mạnh đến lương tri nhân loại tiến bộ. Tác giả không chỉ ra thế lực nào đã vận dụng những phát minh khoa học vào mục đích xấu xa bởi đó dường như không phải là mục đích chính của bài viết này nhưng ông đã giúp nhân loại nhận thức được nguy cơ chiến tranh hạt nhân là hoàn toàn có thực và ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu tranh cho một thế giới hoà bình sẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhân loại trong thế kỉ XXI. TUYÊN BỐ THẾ GIỚI VỀ SỰ SỐNG CÒN, QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM I - GỢI Ý 1. Xuất xứ: Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát trỉen của trẻ em được trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại Liên hợp quốc ngày 30-9-1990, in trong cuốn "Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em", NXB Chính trị quốc gia - Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, 1997. 2. Tóm tắt: Tuy chỉ là một trích đoạn nhưng bài viết này có thể coi là một văn bản khá hoàn chỉnh về hiện thực và tương lai của trẻ em cũng như những nhiệm vụ cấp thiết mà cộng đồng quốc tế phải thực hiện nhằm đảm bảo cho trẻ em có được một tương lai tươi sáng. Ngoài hai ý mở đầu, bài viết được chia thành ba phần rất rõ ràng: Phần một (sự thách thức): thực trạng cuộc sống khốn khổ của rất nhiều trẻ em trên thế giới - những thách thức đặt ra với các nhà lãnh đạo chính trị. Phần hai (cơ hội): những điều kiện thuận lợi đối với việc bảo vệ và phát triển cuộc sống, đảm bảo tương lai cho trẻ em. Phần ba (nhiệm vụ): những nhiệm vụ cụ thể, cấp thiết cần thực hiện nhằm bảo vệ và cải thiện đời sống, vì tương lai của trẻ em. II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan. Trẻ em là tương lai đất nước. Suy rộng ra, sự vận động và phát triển của thế giới trong tương lai phụ thuộc rất nhiều vào cuộc sống và sự phát triển của trẻ em hôm nay. Càng ngày, vấn đề đó càng được nhận thức rõ ràng hơn trên phương diện quốc tế. Năm 1990, Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em đã được tổ chức. Tại đó, các nhà lãnh đạo các nước đã đưa ra bản Tuyên bố về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em. Bài viết này đã trích dẫn những ý cơ bản nhất của bản Tuyên bố đó. Ngay trong phần mở đầu, bản Tuyên bố đã khẳng định những đặc điểm cũng như những quyền lợi cơ bản của trẻ em. Từ đó, các tác giả bắt vào mạch chính với những ý kiến hết sức cơ bản và lô gích. Trong phần thứ nhất, tác giả nêu ra hàng loạt vấn đề có về thực trạng cũng như sự vi phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em. Đó là sự bóc lột, đày đoạ một cách tàn nhẫn, là cuộc sống khốn khổ của trẻ em ở các nước nghèo. Trong hoàn cảnh ấy, những con số thống kê rất có sức nặng ("Mỗi ngày, có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm hoạ của đói nghèo và khủng hoảng kinh tế, của nạn đói, tình trạng vô gia cư, dịch bệnh...; Mỗi ngày có tới 40000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật,..."). Những con số biết nói ấy thực sự là lời cảnh báo đối với nhân loại. Với nội dung như vậy nhưng các tác giả lại đặt tên cho phần này là Sự thách thức. Mới đọc, có cảm tưởng giữa đề mục và nội dung không thật thống nhất. Tuy nhiên, đó lại là yếu tố liên kết giữa các phần trong văn bản này. Tác giả đã sử dụng phương pháp "đòn bẩy": hiện thực càng được chỉ rõ bao nhiêu thì những vấn đề đặt ra sau đó lại càng được quan tâm bấy nhiêu. Trong phần tiếp theo, các tác giả trình bày những điều kiện thích hợp (hay những cơ hội) cho những hoạt động vì quyền của trẻ em. Đó là những phương tiện và kiến thức, là sự hợp tác, nhất trí của cộng đồng thế giới cùng sự tăng trưởng kinh tế, sự biến đổi của xã hội... trong đó các tác giả nhấn mạnh đến nhân tố con người. Bằng những hoạt động tích cực, con người hoàn toàn có thể làm chủ được tương lai của mình khi quan tâm thoả đáng đến các thế hệ tương lai. Trong phần Nhiệm vụ, các tác giả nêu ra tám nhiệm vụ hết sức cơ bản và cấp thiết. Có thể tóm tắt lại như sau: 1. Tăng cường sức khoẻ và chế độ dinh dưỡng của trẻ em. 2. Quan tâm săn sóc nhiều hơn đến trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn. 3. Đảm bảo quyền bình đẳng nam - nữ (đối xử bình đẳng với các em gái). 4. Bảo đảm cho trẻ em được học hết bậc giáo dục cơ sở. 5. Cần nhấn mạnh trách nhiệm kế hoạch hoá gia đình. 6. Cần giúp trẻ em nhận thức được giá trị của bản thân. 7. Bảo đảm sự tăng trưởng, phát triển đều đặn nền kinh tế. 8. Cần có sự hợp tác quốc tế để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trên đây. Với những ý hết sức ngắn gọn, được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, bản Tuyên bố này không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi người, mỗi thành viên trong cộng đồng quốc tế mà còn có tác dụng kêu gọi, tập hợp mọi người, mọi quốc gia cùng hành động vì cuộc sống và sự phát triển của trẻ em, vì tương lai của chính loài người.
Tài liệu đính kèm: