CẢM NHẬN BỐN CÂU THƠ TRONG BÀI “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” CỦA NGUYỄN DUY.
“Cái cò xung chát đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”
Dường như có sợi dây vô hình liên kết giữa ca dao và các thi sĩ.Hình ảnh “cái cò”đã nhiều lần xuất hiện trong ca dao và ta bắt gặp những câu như:
“lặn lội thân cò khi quãng vắng”(bài thương vợ của trần tế xương)
Hay trong thi ca Việt Nam:
“con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng hát nỉ non”
Và bây giờ đến bài “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” của Nguyễn Duy cũng mượn hình ảnh “con cò” để nói lên thân phận hẩm hiu của người mẹ.Khi hát ru đứa con thơ dại bằng lời ca dao
“con cò đậu cọc cầu ao
Ăn xung xung chát,ăn đào đào chua”
CẢM NHẬN BỐN CÂU THƠ TRONG BÀI “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” CỦA NGUYỄN DUY. “Cái cò xung chát đào chua Câu ca mẹ hát gió đưa về trời Ta đi trọn kiếp con người cũng không đi hết mấy lời mẹ ru” Dường như có sợi dây vô hình liên kết giữa ca dao và các thi sĩ.Hình ảnh “cái cò”đã nhiều lần xuất hiện trong ca dao và ta bắt gặp những câu như: “lặn lội thân cò khi quãng vắng”(bài thương vợ của trần tế xương) Hay trong thi ca Việt Nam: “con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng hát nỉ non” Và bây giờ đến bài “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” của Nguyễn Duy cũng mượn hình ảnh “con cò” để nói lên thân phận hẩm hiu của người mẹ.Khi hát ru đứa con thơ dại bằng lời ca dao “con cò đậu cọc cầu ao Ăn xung xung chát,ăn đào đào chua” Trong cuộc sống của mẹ không phải lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, niềm hạnh phúc như tuổi thơ của con, cuộc đời mẹ cũng lắm lúc cô đơn,đau đớn,khổ cực vì phải sống và chăm lo cho gia đình,cùng với việc gánh vác cơm áo gạo tiền hằng ngày.Nhưng con còn quá bé để hiểu được sự khó nhọc của mẹ,nên những lúc con ngủ,mượn lời ru ý tình của ca dao mà mẹ cất lên như bày tỏ nỗi lòng của mình,đó cũng là lúc mẹ trang trải nỗi lòng cùng con. Bây giờ mẹ đã khuất xa ,và lời mẹ hát năm xưa cũng theo làn gió cùng mẹ về trời. Lời hát ru của mẹ chất chứa tình yêu dành cho con,hơn hết nó còn là những triết lí sâu xa chứa đựng những bài học dạy con đạo lí làm người. Những lời mẹ dạy giờ này con mới hiểu,nhưng khi hiểu được thì đã quá muộn vì mẹ đã không còn,không còn ai dạy bảo con qua những lời ru ấy. “con đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết những lời mẹ ru” Với lời ru thiết tha ấy cùng với những lời ru khác mà mẹ hát cho con nghe không hề mất đi. Trái lại,tình ý của những lời ru còn vang vọng mãi trong trái tim con. Mặc dù đời mẹ như con đường dài,dẫu có dài mấy ngàn kilomet thì vẫn chỉ là một con đường có giới hạn,nhưng tình yêu mẹ dành cho con vẫn bao la,ngào ngạt như những lời ru vỗ về tâm hồn con. Đến với bài thơ hay: NGỒI BUỒN NHỚ MẸ TA XƯA NGỒI BUỒN NHỚ MẸ TA XƯA Bần thần hương huệ thơm đêm Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn Chân nhang lấm láp tro tàn Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào. Mẹ ta không có yếm đào Nón mê thay nón quai thao đội đầu Rối ren tay bí tay bầu Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa. Cái cò... sung chát... đào chua... Câu ca mẹ hát gió đưa về trời Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. Bao giờ cho tới mùa thu Trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm Bao giờ cho tới tháng năm Mẹ ra trải chiếu ta nằm đến sao. Ngân hà chảy ngược lên cao Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm... Bờ ao đom đóm chập chờn Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi. Mẹ ru cái lẽ ở đời Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn Bà ru mẹ... Mẹ ru con Liệu mai sau các con còn nhớ chăng. Nhìn về quê mẹ xa xăm Lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương... Sài Gòn, Mùa thu 1986 (Trích trong tập "Mẹ và em" - NXB Thanh Hóa 1987) Sứ mệnh cao cả và thiêng liêng nhất của thi ca xưa và nay thường trao về người mẹ, những hình ảnh mà dù nhìn ở góc độ nào đều lắng đọng những nỗi niềm sâu sắc nhất, cho dù bạn viết bằng bất kì ngôn ngữ nào. Chắc lọc từ sức sống dân gian từ nhiều sắc thái văn hoá, dân tộc, nhà thơ Nguyễn Duy đã đến với người đọc tiếng nói thuần khiết nhất về tâm tình mẹ - con, dòng đời - tình người đầy cảm động trong bài thơ Người buồn nhớ mẹ ta xưa Tiêu đề và lời kết bài thơ là câu ca dao đằm thắm, nghĩa là nhà thơ bắt đầu hành trình tìm về với hình bóng mẹ đã khuất trên nền chất liệu thi ca dân gian bằng lời tấm tình xót xa đến ray rứt: Bần thần hương huệ thơm đêm Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn Chân nhang lấm láp tro tàn Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào Trong đêm, nhân vật trữ tình đối ảnh đàm tâm; thời gian đồng hiện, lấp lánh gương mặt mình của thuở ấy và bây giờ, hình bóng mẹ trong sự hồi ức đầy thương cảm tiếc nuối. Mẹ đã đi xa, đi vào cõi vình hằng, có thể đã đến miền cực lạc có thể đã đến niết bàn, nhưng ở đây đối diện với con, người mẹ vẫn lặng lẽ đến nao lòng. Cặp hình ảnh “chân nhang lấm láp” và “xăm xăm bóng mẹ” đưa ta đến gần hơn với mẹ, với cõi người thiêng liêng. “Mẹ ta” hiện ra bằng sự gần gũi nhưng ray rứt làm sao; gần như ca dao như dân gian nhưng ray rứt bởi một đời lận đận: Mẹ ta không có yếm đào Nón mê thay nón quai thao đội đầu Rối ren tay bí tay bầu Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa Lối tả thực làm sống lại hình ảnh chân thực nhất của mẹ. Hai tiếng mẹ ta rất riêng mà rất chung. Mẹ ta không không có yếm đào- không nón quai thao- không áo tứ thân, chỉ bình dị nguyên mẫu đời thường, chân lấm tay bùn, gieo neo vất vả. Nỗi nhớ về mẹ đã khuất gồng gánh theo cả cuộc đời tác giả được biểu hiện qua sự đắc dụng của của các từ láy bần thần, lấm láp, xa xăm, rối ren càng tô đậm cuộc đời lam lũ của người mẹ quê nhưng cũng là để tôn vinh đấng sinh thành cao cả. Ý thơ dung dị mà hình ảnh thơ thấm đẫm, sâu sắc đến nhường nào. Cái cò... sung chát... đào chua... Câu ca mẹ hát gió đưa về trời Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. Bất giác trong thơ hình bóng mẫu từ thiêng liêng lại được chuyển hoá bằng bóng dáng thân cò. Trong ca dao ta thường gặp “con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng hát nỉ non” hay “cái cò đậu cọc cầu ao /Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua” và “Gió đưa cây cải về trời/ Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” ; nghiệt ngã đó một lần nữa tác giả đã vận vào đời mẹ ta, như một niềm tri ân thành kính trong sự xót xa thân phận. Rồi, cũng chính cái cò sung chát đào chua cây cải về trời đó lại hiển hiện trong kí ức bằng lặng, đẹp đẽ hồn nhiên của ngày thơ. Cánh cò bên nôi hoá trong lời hát thành bầu trời ước mơ bay cao bay xa đến tương lai. Chấp chới cánh cò, chấp chới lời ru kết nối thành một biểu tượng lớn lao nhất. Điều da diết nhất, triết luận nhiều nhất trong bài thơ lại không phải là vấn đề lớn lao mà chính là ở chỗ chân mộc nhất; thực sự nó đã thức tỉnh muôn người, hãy nhìn lại mình trên nẻo về với cõi thiêng liêng trong ý thơ Ta đi trọn kiếp con người /Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. Lời ru không xa lạ trong thi ca ta thường thấy, vậy mà những ngôn ngữ rất đời thường của Nguyễn Duy lại khiến ta xốn xang trước phận mình bởi nhà thơ đã nhận ra kiếp con người dễ gì sánh được mấy lời mẹ ru. “Mấy lời” đó là sự kết tinh cả cuộc đời và của nhiều cuộc đời; hãy để nhà thơ hồi ức về mình trong lời ru đưa nôi: Bao giờ cho tới mùa thu Trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm Bao giờ cho tới tháng năm Mẹ ra trải chiếu ta nằm đến sao. Ngân hà chảy ngược lên cao Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm... Bờ ao đom đóm chập chờn Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi. Hồi ức đó hẵn không xa lạ đối với mỗi chúng ta. Ai cũng đã hơn một lần nghêu ngao trong đêm trăng tuổi thơ: ngửa bàn tay ra đếm sao, bâng quơ hỏi chuyện con vịt đi sau ông Thần nông, xa xôi hơn thì chuyện ban ngày chú Cuội đi đâu vân vân. Đêm trăng đó làm ta yêu hơn ngày thơ bé trong trẻo nhất để rồi yêu mẹ nhiều nhất. Nguyễn Duy thì khác, có lần nhà thơ bộc bạch: “Mẹ tôi mất sớm. Tôi và em gái tôi ở với bà ngoại. Hình ảnh về người mẹ trong bài thơ "Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa" chính là hình ảnh bà ngoại tôi hồi đó... Những đêm hè trời trong, gió mát bà tôi thường trải manh chiếu cói trên mặt đê sông Mã. Cùng các cháu nằm ngắm trăng, kể chuyện "Hằng Nga", chuyện "thằng cuội ngồi gốc cây đa/để trâu ăn lúa...", chuyện ngụ ngôn nào đó, hoặc là đếm "một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng...". Nỗi niềm đó biểu hiện qua các từ láy nghêu ngao,đom đóm,leo lẻo càng làm ta trân trọng hơn tình cảm của tác giả. Giấu tuổi thơ ngây ngô trong buồn lặng, giấu những kí ức đẹp đẽ sáng trong trong niềm dấu ái, nhà thơ đã gói gém tất cả sự trân trọng trong trang viết thấm đẫm suy tư: Mẹ ru cái lẽ ở đời Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn Bà ru mẹ... Mẹ ru con Liệu mai sau các con còn nhớ chăng. Vẫn là lời ru nhưng giờ đây nhà thơ đã nâng lên thành những vấn đề triết luận nhân sinh, lời ru mộc mạc bỗng trở thành đạo lí chân thiện minh triết của mỗi người. Lời ru soi rõ bóng ta đi trong đêm, lời ru chắt chiu mật ngọt dưỡng dung đạo lí ở đời. Quy luật tự nhiên Bà ru mẹ... Mẹ ru con/Liệu mai sau các con còn nhớ chăng trở thành lời thức tỉnh chúng ta trên hành trình lớn khôn. Cuộc sống hiện đại có khi đã chi phối những hằng thường đạo lí vì thế điều mà nhà thơ băn khoăn hẵn không phải không có lí do. “...Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao” (Kinh thi) đã trở thành đạo lí để chúng ta hướng về cội nguồn, về đấng sinh thành. Biết vậy nhưng để hoàn thành tâm nguyện đó không phải là điều giản đơn, ngay cả nhà thơ cũng tìm đến điều này qua phút giây bần thần trong đêm, qua nét vẽ của tâm linh- khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn xa xăm Nhìn về quê mẹ xa xăm Lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương... Âm điệu chung của bài thơ phảng phất nỗi buồn, nỗi buồn trực cảm về hình ảnh người mẹ hoà cùng bao kỉ niệm thân thương. Và chính nỗi buồn đó đã thắp lên trong lòng mỗi người những tình cảm chân thật nhất về chốn yêu thương của mình. Sự hy sinh, đùm bọc đứa con của mẹ gắn với những hành động yêu thương rất đỗi bình thương mà cao cả . Hình ảnh “chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo phần con” và "miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương" đưa ta đến tận cùng tình thương yêu của mẹ mà thiết nghĩ bất kì ai cũng tìm thấy mình ở đó. Và, những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ về người mẹ trong mỗi con người là nguồn sống cho những lý tưởng cao đẹp, những giá trị nhân văn giúp cho cái chân, cái thiện, cái mỹ vốn tiềm ẩn trong mỗi chúng ta phát triển. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là bài thơ đặc biệt bởi nó được ươm trồng ngay trên nền của chất liệu dân gian nhưng lại có đời sống riêng của nó. Sự đắc dụng của 11 từ láy vào trong thể thơ “6 và 8” (như cách nhà thơ gọi) đã tạo được sự biểu đạt lớn lao trong mạch chuyển của chủ đề, đây cũng là một trong những cách biểu đạt thành công nhất của Nguyễn Duy trong góp phần cho bài thơ thăng hoa và tạo mạch đồng cảm từ tác giả đến người đọc.
Tài liệu đính kèm: