Giáo án môn Ngữ lớp 9 - Bài: Viếng lăng Bác - Viễn Phương

Giáo án môn Ngữ lớp 9 - Bài: Viếng lăng Bác - Viễn Phương

Viếng lăng Bác - Viễn Phương.

1. Hoàn cảnh sáng tác :

Tháng 4 năm 1976. Tác giả là người miền Nam. Thơ của Viễn Phương là tiếng nói của đồng bào miền Nam hướng về vị Cha già kính yêu của dân tộc.

- Sáng tác sau khi đất nước thống nhất, thể hiện cảm xúc chân thành và suy ngẫm sâu sắc về hình tượng Bác Hồ trong lòng dân tộc.

2. Kết cấu :

Gồm 4 khổ thơ, thể hiện tình cảm với lãnh tụ qua tình cảm riêng tư. Bố cục nghệ thuật từ xa tới gần, từ ngoài vào trong, kết nối suy tưởng - cảm xúc. Thể thơ tự do, riêng khổ 3 kết cấu theo thể thất ngôn, cô đọng vẻ đẹp hình tượng Bác Hồ.

3. Phân tích :

+ Khổ đầu :

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Tình cảm bộc lộ trực tiếp qua cách xưng hô : Con – Bác, từ đó tạo thành mối liên hệ đồng cảm, gần gũi, vừa yêu thương vừa kính trọng với lãnh tụ. Tác giả không dùng từ « viếng » trong câu thơ mà dùng từ « thăm » để tạo cảm giác như được tiếp xúc với Bác. Tính chất gặp gỡ thân tình mà cảm động, nên từ xa nhìn thấy đã ngập tràn xúc cảm : « sương » vừa là báo hiệu thời gian ra thăm từ rất sớm, tạo nên không khí se chùng niềm thương nỗi nhớ. Nhưng cũng cho phép liên tưởng hình ảnh tác giả nhìn cảnh vật như mờ ảo sau màn sương – nhoà lệ nhớ thương ! Hình ảnh lăng Bác tạo cảm giác thân thuộc gần gũi, vì có sự xuất hiện của « hàng tre ». Hai sắc thái được diễn tả là « bát ngát » và « xanh xanh » để bao quát không gian rộng, thoáng và yên bình, không gian mở ra ngút ngát.

Thăm Bác, nhìn thấy hàng tre cũng là lúc tác giả nói lên cảm giác xúc động mãnh liệt về hình ảnh biểu tượng của dân tộc. Thán từ « Ôi ! » cùng với cảm nhận dáng tre « đứng thẳng hàng » nghiêm trang cũng tạo nên cảm giác thành kính thiêng liêng trước lăng Bác. Không những thế, tư thế « đứng thẳng hàng » còn đặt trong thế đối lập với « bão táp mưa sa » gợi lên phẩm chất của tre dẻo dai, cứng cáp bền bỉ, cũng là tư thế hiên ngang của dân tộc vượt qua bao thử thách gian lao để đi đến thắng lợi vinh quang. Để từ đó, tác giả như cảm nhận giây phút về bên Bác, có toàn thể dân tộc cùng canh giấc ngủ cho Người.

 

doc 3 trang Người đăng honghoa45 Lượt xem 907Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ lớp 9 - Bài: Viếng lăng Bác - Viễn Phương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Viếng lăng Bác - Viễn Phương.
1. Hoàn cảnh sáng tác : 
Tháng 4 năm 1976. Tác giả là người miền Nam. Thơ của Viễn Phương là tiếng nói của đồng bào miền Nam hướng về vị Cha già kính yêu của dân tộc.
- Sáng tác sau khi đất nước thống nhất, thể hiện cảm xúc chân thành và suy ngẫm sâu sắc về hình tượng Bác Hồ trong lòng dân tộc.
2. Kết cấu : 
Gồm 4 khổ thơ, thể hiện tình cảm với lãnh tụ qua tình cảm riêng tư. Bố cục nghệ thuật từ xa tới gần, từ ngoài vào trong, kết nối suy tưởng - cảm xúc. Thể thơ tự do, riêng khổ 3 kết cấu theo thể thất ngôn, cô đọng vẻ đẹp hình tượng Bác Hồ.
3. Phân tích :
+ Khổ đầu :
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Tình cảm bộc lộ trực tiếp qua cách xưng hô : Con – Bác, từ đó tạo thành mối liên hệ đồng cảm, gần gũi, vừa yêu thương vừa kính trọng với lãnh tụ. Tác giả không dùng từ « viếng » trong câu thơ mà dùng từ « thăm » để tạo cảm giác như được tiếp xúc với Bác. Tính chất gặp gỡ thân tình mà cảm động, nên từ xa nhìn thấy đã ngập tràn xúc cảm : « sương » vừa là báo hiệu thời gian ra thăm từ rất sớm, tạo nên không khí se chùng niềm thương nỗi nhớ. Nhưng cũng cho phép liên tưởng hình ảnh tác giả nhìn cảnh vật như mờ ảo sau màn sương – nhoà lệ nhớ thương ! Hình ảnh lăng Bác tạo cảm giác thân thuộc gần gũi, vì có sự xuất hiện của « hàng tre ». Hai sắc thái được diễn tả là « bát ngát » và « xanh xanh » để bao quát không gian rộng, thoáng và yên bình, không gian mở ra ngút ngát. 
Thăm Bác, nhìn thấy hàng tre cũng là lúc tác giả nói lên cảm giác xúc động mãnh liệt về hình ảnh biểu tượng của dân tộc. Thán từ « Ôi ! » cùng với cảm nhận dáng tre « đứng thẳng hàng » nghiêm trang cũng tạo nên cảm giác thành kính thiêng liêng trước lăng Bác. Không những thế, tư thế « đứng thẳng hàng » còn đặt trong thế đối lập với « bão táp mưa sa » gợi lên phẩm chất của tre dẻo dai, cứng cáp bền bỉ, cũng là tư thế hiên ngang của dân tộc vượt qua bao thử thách gian lao để đi đến thắng lợi vinh quang. Để từ đó, tác giả như cảm nhận giây phút về bên Bác, có toàn thể dân tộc cùng canh giấc ngủ cho Người.
+ Khổ 2 :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Nếu như khổ thứ nhất là cảm nhận không gian trong cảm giác thanh tĩnh tuyệt đối thì khổ thứ hai là cảm nhận từ góc độ thời gian nghệ thuật. Thời gian được nói đến là « ngày ngày » cùng với hình ảnh so sánh « mặt trời » thực và « mặt trời trong lăng » tạo nên vẻ đẹp của suy tưởng biết ơn thành kính. Hình ảnh Bác được nâng tầm ngang với hình ảnh bất tử - mặt trời – mang tầm vóc vũ trụ. Mặt trời trong lăng là cách hình dung về Bác, theo thủ pháp hoán dụ. Mặt trời đem cho thế gian ánh sáng, sự sống, cũng như Bác đem ánh sáng lý tưởng cộng sản, sắc đỏ tương lai cho toàn dân tộc. 
Sự nghiệp của Bác tạo dựng nên cũng bất tử trường tồn như ánh thái dương. Suy ngẫm ấy không làm cho hình ảnh của vĩ nhân quá xa vời mà lại khiến Bác càng sống trong niềm thương nỗi nhớ của mọi người. Tình cảm thành kính biết ơn đã được tác giả đặt trong liên tưởng « dòng người » - « tràng hoa » và từ « dâng ». Cuộc đời Bác là « bảy mươi chín mùa xuân », mang ý nghĩa biểu tượng của một sức sống vĩnh cửu, một vẻ đẹp hoà vào thiên nhiên đầy sức sống như mùa xuân. Thủ pháp điệp kết cấu « ngày ngày...đi qua trên lăng » và « ngày ngày....đi trong thương nhớ » tạo hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt : vừa chiêm ngưỡng cảm phục, vừa trân trọng yêu thương. Vẻ đẹp của Bác luôn sáng mãi trong lòng dân tộc, luôn gần gũi thân thương trong trái tim mọi người.
+ Khổ 3 : 
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Khổ thơ diễn tả khoảnh khắc tác giả được đứng chiêm ngưỡng Bác trong lăng. Cảm xúc dồn nén, chất chứa thương yêu đem lại sự lắng sâu về vẻ đẹp tâm hồn Bác. Ở trên, Bác được so sánh với “mặt trời” thì ở khổ này Bác lại được đặt vào ánh sáng “vầng trăng” . Thực ra, vầng trăng này là một liên tưởng sáng tạo của Viễn Phương, bởi lẽ trong lăng nhưng tâm hồn Bác luôn có vầng trăng tri kỷ. 
Tâm hồn Bác là tâm hồn thi nhân, trăng từng làm bạn với Người trong bao bài thơ khi bị giam cầm, lúc đi kháng chiến nên giờ đây khi Người vào “giấc ngủ bình yên” thì dường như trăng lại toả sáng cốt cách thi nhân của Bác. Toát lên từ khuôn mặt Bác là vẻ đẹp mà tác giả cảm nhận như giấc ngủ bình yên, giấc ngủ của con người thanh thản vì đã làm tròn sứ mệnh với dân tộc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng của mình. Câu thơ gợi cảm giác nghiêm trang, đến lúc đó mới cảm thấy nỗi đau mất mát. Tác giả nghĩ về “trời xanh” cũng có nghĩa là nghĩ đến thời điểm đất nước thanh bình, nhưng cũng là cách ẩn dụ nói về con người Bác đã hoà nhập vào vũ trụ vĩnh hằng. Ý thơ này giống như câu thơ của một cao tăng Nhật Bản là thiền sư Ryokê Osini từng viết: 
"Trời xanh đón ngườii cứu nước về
Đau lòng chúng sinh trên đường mê
Xưa nay hiếm bậc lão anh kiệt
Chiếc lá thu bay trời ủ ê. "
Nỗi đau là có thật, xuất phát từ sâu thẳm trái tim của đứa con miền Nam ra thăm Bác ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất.(Chúng ta biết Bác luôn dành tình cảm sâu đậm cho đồng bào miền Nam khi sinh thời Người nói “Miền Nam trong trái tim tôi” và Tố Hữu trong bài tơ “Bác ơi” cũng từng viết: Miền Nam đang thắng mơ ngày hội/ Rước Bác vào thăm thấy Bác cười!). Ngày hội non sông không chứng kiến nụ cười của Bác rạng rỡ, nên nỗi đau như “nhói ở trong tim” là nỗi đau không gì bù đắp.
+ Khổ kết:
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Tình cảm của nhà thơ đến khổ thơ này tự nhiên không hề kìm giữ, làm nên phút giây “trào nước mắt” của nỗi xúc động bồi hồi. Tình cảm ấy không hề bi lụy mà thăng hoa thành khát vọng, thành lời tâm nguyện trước anh linh của Bác. Nỗi nhớ nhung biến thành ước muốn thật đẹp đẽ của đứa con miền Nam: muốn làm con chim hót, đoá hoa toả hương, muốn giữ lại những thời khắc lắng đọng và đẹp đẽ nhất của tâm hồn khi được gần bên Bác. Nói như một ý thơ Tố Hữu: “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn” hay như câu thơ: “Ta bên Người, Người toả sáng trong ta/ Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”. Mượn những hình tượng tự nhiên để diễn tả lòng mình, Viễn Phương cũng nói hộ tấm lòng những đứa con của Bác: muốn lòng mình trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn. Hơn thế, tác giả còn muốn hoá thân “làm cây tre trung hiếu chốn này” - bồi đắp tâm hồn và phẩm chất để sống xứng đáng với tình thương của Bác. Đó cũng là lời hứa tiếp tục thực hiện ước vọng của Người. 
Sau này bài thơ đã thành giai điệu trong bài hát nổi tiếng cùng tên, lời thơ được chắp cánh, thăng hoa thành bài hát xúc động bao thế hệ. Bởi những gì mà tác giả gửi gắm đã nói lên tình cảm đồng điệu của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước.
Nguồn : Internet.

Tài liệu đính kèm:

  • docVieng Lang bac(2).doc